Mô hình tập đoàn kinh tế - hoạt động của tập đoàn dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008 và xu hướng phát triển - 2

Lời mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài

Bất kì một quốc gia nào đều phải tồn tại một hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp này là những phương tiện cụ thể để nhà nước thâu tóm quyền kiểm soát đối với những lĩnh vực quan trọng [8; tr.46]. Ở Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp nhà nước được hiểu là các tập đoàn kinh tế. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, xu thế hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Tập đoàn kinh tế ra đời, tồn tại rất lâu trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới. Các tập đoàn từng bước nắm lấy các ngành và lĩnh vực chủ chốt của một đất nước, hình thành một mạng lưới các đơn vị trực thuộc, là nhân tố chính thúc đẩy phát triển kinh tế. Ví dụ như Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc, Tập đoàn Sumitomo của Nhật Bản, Tập đoàn Nokia của Phần Lan… là những tập đoàn hùng mạnh có chi nhánh và văn phòng đại diện ở nhiều nước trên thế giới.

Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển chung của thế giới. Ngày 7 tháng 3 năm 1994, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 91/TTg về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh (hay được gọi là các tập đoàn kinh tế). Sau quyết định đó thì một loạt các tập đoàn kinh tế đã ra đời. Về cơ bản, các tập đoàn kinh tế đươc thành lập là sự chuyển đổi từ các Tổng công ty 91 trước đây. Khi hình thành các Tổng công ty này, Nhà nước muốn nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, tiến tới có thể cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn trên thế giới trong quá trình hội nhập. Sau vài năm hoạt động các tập đoàn đã thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực, xương sống của nền kinh tế. Các tập đoàn là lực lượng chính huy động và sử dụng nguồn lực hợp lý, hiệu quả. Tập đoàn kinh tế ra đời tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Tập đoàn kinh tế cũng là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ

khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ mới nhất vào sản xuất và đời sống. Hàng năm, các tập đoàn kinh tế đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước. Tập đoàn không chỉ thực hiện các mục tiêu kinh tế mà còn góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại những mặt yếu kém hạn chế, tiêu cực trong quá trình hoạt động. Vì vậy mà cần có những nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế, từ đó đưa ra lựa chọn con đường phát triển của các tập đoàn kinh tế Việt Nam. Trong khóa luận em phân tích cụ thể hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – một tập đoàn kinh tế tiêu biểu của Việt Nam mới được thành lập từ năm 2007 để làm dẫn chứng cụ thể khi phân tích về mô hình tập đoàn kinh tế.

Từ những lý do trên mà em chọn tên đề tài khóa luận là: “Mô hình tập đoàn kinh tế – Hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006 – 2008 và xu hướng phát triển”.

2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận

Nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới nói chung: khái niệm, tính tất yếu ra đời tập đoàn kinh tế, đặc điểm, phân loại, vai trò. Sau đó điểm qua quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế tại Việt Nam từ quyết định số 91/TTg của Thủ tướng chính phủ. Nghiên cứu về Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Các đặc điểm của tập đoàn, đặc điểm về ngành nghề hoạt động. Đặc biệt là phân tích hoạt động của tập đoàn Dầu khí trong trong 2 năm đầu mới thành lập và xu hướng phát triển của Tập đoàn Dầu khí trong những năm tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

Đối tượng nghiên cứu: mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới, quá trình chuyển đổi từ các tổng công ty sang mô hình tập đoàn của Việt Nam, tình hình tổ chức của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sau khi chuyển đổi từ tổng công ty Dầu khí Việt Nam thành Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, xu hướng phát triển của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của tập đoàn kinh tế, quá trình hình thành phát triển của các tập đoàn kinh tế Việt Nam, Hoạt động tổ chức, sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong năm 2006 - 2008, xu hướng phát triển.

Mô hình tập đoàn kinh tế - hoạt động của tập đoàn dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006 - 2008 và xu hướng phát triển - 2

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích – tổng hợp

- Phương pháp mô tả và khái quát đối tượng nghiên cứu

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp tư duy logic

5. Kết cấu của khóa luận

Khóa luận bao gồm lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và 3 chương như sau:

Chương 1: Mô hình tập đoàn kinh tế

Chương 2: Hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giai đoạn 2006

– 2008

Chương 3: Xu hướng phát triển của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và một số kiến nghị

Em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Thu Thủy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình viết khóa luận.

Chương 1: Mô hình tập đoàn kinh tế‌‌


I. Cơ sở lý luận về hình thành và phát triển mô hình tập đoàn kinh tế

1. Khái niệm tập đoàn kinh tế

Tập đoàn kinh tế (TĐKT) ở các nước khác nhau được gắn với những tên gọi khác nhau. Ở Nhật Bản trước chiến tranh gọi là Zaibatsu và sau chiến tranh thì gọi là Keiretsu, Hàn Quốc gọi là Cheabol, Trung Quốc gọi là Jituan gongsi,… Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến “Tập đoàn kinh tế” người ta thường sử dụng các từ: Consortium, Conglomerate, Cartel, Trust, Alliance, Syndicate hay Group.

Mặc dù về mặt ngôn ngữ, tùy theo từng nước, người ta có thể dùng nhiều từ khác nhau để nói về khái niệm TĐKT. Song trên thực tế, việc sử dụng từ ngữ lại phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại TĐKT.

Ở Nhật Bản, Keiretsu được hiểu: Keiretsu là tập đoàn tạo ra mối liên kết hàng ngang giữa các công ty làm ăn với nhau bằng phương thức xâm nhập sâu vào nhau qua mua cổ phần của đối tác. Phương thức này đặc biệt phổ biến trong quan hệ giữa nhà sản xuất với các nhà thầu phụ của họ.

Chaebol của người Hàn thường được kiểm soát bởi một gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc.

Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn chế cung ứng hàng hoá, hoặc các biện pháp hạn chế khác.

Theo tác giả Minh Châu [2; tr7] Tập đoàn là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp có vị trí kinh tế độc lập, chọn một doanh nghiệp cốt cán làm nòng cốt; giữa các doanh nghiệp đó có một mối liên hệ kinh tế kĩ thuật nhất định, cùng nhau thực hiện một liên hợp kinh tế có qui mô tương đối lớn. Loại liên kết này có thể dùng ngay vốn cổ phần của mình hoặc thông qua việc

kí kết hợp đồng tiến hành các phương thức góp vốn lại, sắp xếp nhân sự, cung ứng nguyên vật liệu hoặc cùng nhau tiêu thụ, cùng nhau trao đổi kĩ thuật, từ đó làm cho các doanh nghiệp trong tập đoàn căn cứ vào mục tiêu kinh tế xác định của mình để tiến hành các hoạt động nhịp nhành. Tập đoàn là hình thức cấp cao liên hợp với nhau theo chiều ngang [2; tr.7]

Theo điều 149 luật Doanh nghiệp 2005: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”. Tuy nhiên những quy định hướng dẫn của Chính phủ hiện nay vẫn đang trong quá trình dự thảo, xem xét. Định nghĩa trên rất chung chung và không rõ ràng.

Theo bản dự thảo nghị định về hình thành, tổ chức, hoạt động, và giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước: Tập đoàn kinh tế nhà nước là nhóm công ty, liên kết chủ yếu dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên, tạo thành tổ hợp kinh doanh gắn bó lâu dài với lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác; trong đó doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ giữ vai trò chi phối hoặc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp thành viên khác và các liên kết giữa các doanh nghiệp. Tập đoàn kinh tế nhà nước không có tư cách pháp nhân; các công ty tham gia thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân.

Tóm lại, có nhiều cách khác nhau để định nghĩa tập đoàn. Nhưng các khái niệm này đều có những điểm chung như sau:

- Tập đoàn có cơ cấu nhiều tầng nấc.

- Giữa các thành viên trong tập đoàn có mối liên kết nhất định.

- Trong tập đoàn có một hạt nhân đóng vai trò nòng cốt.

- Tập đoàn là liên hiệp pháp nhân chứ không phải là một pháp nhân, được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi.

- Các công ty mẹ giữ vai trò hạt nhân trong sự phát triển của tập đoàn.

2. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc hình thành, phát triển tập đoàn kinh tế

2.1. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Tập trung sản xuất tạo ra các tổ chức kinh doanh kiểu tập đoàn là quy luật phổ biến và cơ bản của tự do cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và liên kết quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu rọng của phân công lao động xã hội, quy mô của sản xuất và tiêu thụ, sản xuất kinh doanh chuyển sang một giai đoạn đi sâu vào xã hội hóa, hợp tác, phân công và sở hữu hỗn hợp. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới phân công, chuyên môn hóa ngày càng sâu rộng, các doanh nghiệp càng cần liêu kết với nhau để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung sản xuất để đi vào sản xuất lớn. Tập đoàn kinh tế là biẻu hiện của quan hệ sản xuất ra đời để phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.

2.2. Quy luật tích tụ, tập trung vốn và sản phẩm

Để tồn tại, các doanh nghiệp phải liên tục tái sản xuất và mở rộng quy mô, tích lũy tập trung vốn vào sản xuất. Vốn tái đầu tư vào doanh nghiệp có thể là lợi nhuận để lại hay từ các nguồn khác như: đi vay, liên doanh, liên kết, cổ phần… Vì vậy mà doanh nghiệp lớn mạnh theo thời gian, doanh nghiệp lớn thôn tích các doanh nghiệp nhỏ yếu hơn. Nhờ có lợi thế về quy mô mà các tập đoàn có thể tận dụng được quy luật lợi ích tăng dần theo quy mô. Trong quá trình vận động đó, tập đoàn kinh tế ra đời.

2.3. Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hóa lợi nhuận

Cạnh tranh để dành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là quy luật hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính, sáp nhập các doanh nghiệp bị đánh bại.

Liên kết giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu. Nguyên nhân là do sự phát triển của phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất – kinh doanh cần phải kết hợp lẫn nhau. Mỗi doanh nghiệp đều có khâu thừa, khâu thiếu về năng lực sản xuất, khi liên kết với nhau để khắc phục được nhược điểm và tận dụng ưu thế của doanh nghiệp liên kết.

Tiêu chuẩn về tính hợp lý trong liên kết các doanh nghiệp là phải đạt yêu cầu tiết kiệm trong phạm vi liên kết sao cho hiệu quả là 1+1>2 và chi phí là 1+1<2. Sau khi liên kết phải mở rộng được thị trường, nắm vị trí độc quyền hoặc có lợi thế cạnh tranh. Có được quy mô sản xuất đủ lớn để giảm tối đa giá thành bình quân.

2.4. Quy luật khoa học và công nghệ phát triển không ngừng

Nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh là một yếu tố quyết định cho doanh nghiệp dành thắng lợi trong cạnh tranh. Tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra sức ép đòi hỏi các doanh nghiệp liên tục đổi mới, nghiên cứu ứng dụng các dây truyền công nghệ cao. Do đó mà đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên kết với nhau, tập trung vốn và lực đầu tư vào khoa học công nghệ. Tập đoàn kinh tế từ đó ra đời để đẩy nhanh sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Ngược lại, khi khoa học công nghệ phát triển là nhân tố dẫn đến hình thành các tập đoàn.

2.5. Xu thế toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa là xu thế phát triển tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Từ sản xuất đến tiêu thụ không còn thu hẹp trong phạm vi một quốc gia mà là liên kết giữa nhiều quốc gia với nhau. Các doanh nghiệp không ngừng mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động bằng cách liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác hay thành lập các chi nhánh ở nước khác để tận dung nguồn nguyên liệu, nguồn lao động đồi dào. Sự kết hợp để cùng tồn tại và phát triển đã thúc đẩy ra đời các tập đoàn kinh tế.

3. Phân loại tập đoàn kinh tế

3.1 Căn cứ vào trình độ liên kết

3.1.1. Liên kết chặt chẽ

Liên kết chặt chẽ là kiểu liên kết theo kiểu công ty mẹ - công ty con. Các công ty thành viên liên kết chặt chẽ với nhau trong một tổ chức thống nhất và mất tính độc lập về tài chính, sở hữu, hình thức tổ chức, sản xuất thương mại… Vì thế mà liên kết này còn được gọi là Tập đoàn cứng. Loại tập đoàn này hợp nhất các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc các doanh nghiệp có liên quan về quy trình công nghệ sản xuất, bổ sung cho nhau trong quá trình gia công chế biến liên tục hoặc chế biến lại nhằm tập trung hóa tư bản, đẩy nhanh tuần hoàn tư bản, tăng quy mô lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. Loại mô hình này là loại hình đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp thành viên thường cùng một ngành hay có liên quan với nhau về quy trình công nghệ.

3.1.2. Liên kết lỏng lẻo

Là quan hệ hiệp tác sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp liên kết với nhau bằng giao kèo, hợp đồng. Doanh nghiệp liên kết không có tư cách pháp nhân. Tập đoàn kinh tế được hình thành trên cơ sở mối liên kết của các công ty của nhiều chủ sở hữu khác nhau, cùng ngành sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận độc quyền, phân chia thị trường tiêu thụ và tăng địa vị cạnh tranh của các công ty trong tập đoàn với các đối thủ khác. Vì vậy mà người ta còn gọi là Tập đoàn liên kết mềm. Các công ty thành viên kí kết hợp đồng hợp tác thỏa thuận các nguyên tắc về quy mô sản xuất, giá cả, thị trường tiêu thụ, hợp tác nghiên cứu trao đổi. Ví dụ của loại hình liên kết này là Cartel.

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí