Sơ Đồ Mô Hình Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước (Ủy Ban) Giai Đoạn 1‌


vốn nhà nước để tập trung nguồn lực đầu tư các dự án trọng điểm quốc gia; xây dựng Đề án thành lập Công ty quản lý quỹ đầu tư thị trường tài chính – ngân hàng để thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu tại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước; xây dựng Đề án thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia để quản lý và thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại DATC và VAMC.

Hình 4.4: Sơ đồ mô hình cơ quan quản lý nhà nước (Ủy ban) Giai đoạn 1‌

4 4 3 Tiếp tục hoàn thiện mô hình Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh 1

4.4.3. Tiếp tục hoàn thiện mô hình Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (giai đoạn 2)


Tiếp tục thực hiện mô hình Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, tuy nhiên cần đổi mới mô hình cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, trong bối cảnh các tập đoàn, tổng công ty đa phần đã cổ phần hóa, quản trị hiện đại, niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.

Quỹ đầu tư tài chính quốc gia: hình thành từ các khoản đầu tư không chi phối của nhà nước; Đây là giai đoạn mô hình quản lý theo quỹ là rất phù hợp cho các doanh nghiệp có cơ cấu vốn nhà nước không chi phối (nhà nước đầu tư tài chính), có thể bán hết vốn hoặc quản lý như cổ đông góp vốn với mục tiệu hiệu quả đầu tư là quan trọng nhất vì mục tiêu lợi nhuận; nhóm này thành lập Quỹ đầu tư tài chính nòng cốt xây dựng quỹ này là SCIC bao gồm cả các doanh nghiệp quản lý của UBND Hà Nội và UBND Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp của các bộ ngành, tỉnh thành phố. Như mô hình của phương án 1 nêu trên.

Thành lập Tập đoàn đầu tư chiến lược quốc gia: Các khoản đầu tư chi phối của nhà nước (các tập đoàn, tổng công ty nhà nước giữ cổ phần chi phối), hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp (công ty mẹ - công ty con) (Holding Group). Như mô hình của phương án 2 nêu trên.

Quỹ đầu tư quốc gia: từ nguồn thu bán vốn, cổ phần hóa, lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiếp tục được tích tụ, tập trung để đầu tư cho các dự án trọng điểm quốc gia, đầu tư chiến lược để phát triển quốc gia, không dùng cho chi tiêu thường xuyên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.


Hình 4.5: Đề xuất mô hình cơ quan chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam giai đoạn từ nay đến 2030 (giai đoạn 2)

4 4 4 Những giải pháp để hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước tại doanh 2

4.4.4. Những giải pháp để hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các Bộ ngành và địa phương

Thứ nhất, mô hình chủ sở hữu nhà nước đối với các DNCVNN thuộc bộ, ngành:

Bộ Quốc phòng: Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn nhà nước ngành và lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ. Phần vốn nhà nước của các DNCVNN cần nắm giữ tập trung vào Tập đoàn viễn thông - công nghiệp quốc phòng (lấy Viettel làm nòng cốt). Quản lý nhà nước và thực hiện quyền của Chủ sở hữu nhà nước dưới mô hình hình thức doanh nghiệp (holding).

Bộ Công an: Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn nhà nước ngành và


lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ. Phần vốn nhà nước của các DNCVNN cần nắm giữ tập trung vào Tập đoàn công nghiệp An ninh Quốc gia. Quản lý nhà nước và thực hiện quyền của Chủ sở hữu nhà nước dưới mô hình hình thức doanh nghiệp (holding).

Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước: Các doanh nghiệp đặc thù thuộc 2 cơ quan này tiếp tục thực hiện để giải quyết những vấn đề về cổ phần hóa (DATC) và xử lý nợ xấu (VAMC), theo đặc thù của ngành, thành lập Tổng công ty mua bán nợ quốc gia để quản lý và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu của DATC và VAMC. Thành lập Công ty quản lý quỹ đầu tư tài chính – ngân hàng để thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu tại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước.

Thứ hai, đối với các DNCVNN thuộc UBND Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh:

Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập Công ty Đầu tư tài chính nhà nước (HFIC), đang được giao quản lý vốn nhà nước tại 2 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, 01 doanh nghiệp có 51% sở hữu nhà nước và 12 doanh nghiệp có tỷ lệ vốn nhà nước dưới 50% vốn điều lệ bao gồm các công ty liên kết, liên doanh. Trong thời gian tới, nếu thực hiện theo phương án này, HFIC sẽ tiếp nhận quản lý vốn nhà nước tại toàn bộ các doanh nghiệp còn lại của Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hà nội sẽ cần thành lập mới một tổ chức tương tự như HFIC ở Thành phố Hồ Chí Minh. Mô hình giống như SCIC đang thực hiện đại diện chủ sở hữu tại DNCVNN.

Về lâu dài hai doanh nghiệp thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cũng được chuyển giao về Ủy ban quản lý vốn nhà nước đảm bảo tính tập trung thống nhất tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.

Thứ ba, đối với các DNCVNN thuộc các địa phương:


Tiếp tục cơ cấu lại, bán hết vốn nhà nước không cần nắm giữ, chuyển giao các DNCVNN về SCIC, chỉ nắm giữ DN 100% vốn nhà nước trong lĩnh vực xổ số, nhất là các địa phương phía nam, khi các DN xổ số đóng góp lớn cho NSNN của địa phương.

Thứ tư, các giải pháp khác: Cùng với việc hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN, để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNCVNN cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ quyền của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nước đối với DNCVNN, cụ thể:

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quản lý cán bộ, lao động và tiền lương của DNCVNN. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động và người quản lý DNCVNN phù hợp với cơ chế thị trường, có tính cạnh tranh cao trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh doanh. Thực hiện việc tách người quản lý DNCVNN khỏi chế độ viên chức, công chức. Công khai trong công tác tuyển dụng nhân sự, nhất là nhân sự chủ chốt, thực hiện cơ chế hợp đồng lao động với mục tiêu và nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm rõ ràng đối với cán bộ chủ chốt, người đứng đầu DNCVNN.

Sửa đổi, bổ sung các cơ chế quản lý tài chính, tiêu chí giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNCVNN; tiêu chí phân loại DNCVNN. Hoàn thiện cơ chế, tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của người đại diện chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN, nhất là người đại diện được cử giữ chức danh chủ chốt tại DN để tạo sự đồng bộ, thông suốt cho triển khai hoạt động của mô hình mới.

Đối với DNCVNN sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo đơn đặt hàng của Nhà nước cần công khai minh bạch, tổ chức đấu thầu và kiểm soát chất lượng dịch vụ, sản phẩm công ích.


Quy định chủ sở hữu Nhà nước thực hiện quyền thu lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, từ phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp khác để tập trung về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển DNCVNN tạo nguồn để Nhà nước hỗ trợ sắp xếp DNCVNN và đầu tư cho những ngành, lĩnh vực, dự án trọng điểm quốc gia cần ưu tiên phát triển, không dùng cho chi tiêu thường xuyên.

Hoàn thiện khung pháp lý để DNCVNN hoạt động kinh doanh công khai minh bạch, cạnh tranh bình đẳng với các DN thuộc các thành phần kinh tế khác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; công tác giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước cần thường xuyên và có chế tài cụ thể, rõ ràng. Hoàn thiện cơ chế quản lý người đại diện vốn nhà nước nước tại DN theo hướng gắn trách nhiệm và lợi ích với hiệu quả hoạt động của DNCVNN. Có chế tài xử lý nghiêm người đại diện vốn nhà nước tại DN lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi cho cá nhân.

Thu hẹp các ngành còn độc quyền DN, nhất là sản xuất và cung ứng điện, bán lẻ điện. Thực hiện tốt quy định về quản lý, kiểm soát độc quyền và thúc đẩy cạnh tranh...

Đẩy mạnh cơ cấu lại DNCVNN theo hướng thu hẹp ngành, lĩnh vực hoạt động và số lượng DNCVNN. Giảm dần và từng bước rút khỏi các ngành, lĩnh vực mà các loại hình DN khác có thể thực hiện tốt hơn DNCVNN. Cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu được thực hiện quyết liệt, nhất quán; thúc đẩy phát triển thị trường tài chính (chứng khoán, mua bán nợ) để hỗ trợ thực hiện cơ cấu lại khu vực DNCVNN.

Hoàn thiện quy định trách nhiệm, quyền hạn, phân công, phân cấp phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương cùng với Ủy ban quản lý vốn nhà nước trong việc thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN.


Tiếp tục nâng cao quản trị DNCVNN: Cần xác định mục tiêu, nhiệm vụ, tiêu chí đánh giá rõ ràng, công khai, đáp ứng đầy đủ và hợp lý của chủ sở hữu để làm căn cứ giám sát, đánh giá; Nhà nước đối xử công bằng giữa DNCVNN với doanh nghiệp khác trong tiếp cận và phân bổ nguồn lực của quốc gia; Chủ sở hữu nhà nước có trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch hoạt động, tài chính, đầu tư của DNCVNN. Thường xuyên công bố báo cáo thường niên về hoạt động đầu tư kinh doanh của chủ sở hữu nhà nước.

Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu, giải pháp về hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN ở Việt Nam, cần có quyết tâm và đồng thuận chính trị rất cao của tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức cùng với lộ trình thực hiện các giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn, khắc phục được những khó khăn trong thực thi.


KẾT LUẬN

Luận án với Đề tài “Mô hình chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước ở Việt Nam” đã tập trung nghiên cứu và bổ sung khung lý thuyết, tổng kết đánh giá, khái quát hóa mô hình từ thực tiễn của kinh nghiệm quốc tế một cách khách quan, khoa học để từ đó xây dựng mô hình chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước. Từ thực tiễn của Việt Nam, luận án đã chỉ ra những tồn tại và các vấn đề đặt ra cần hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN. Luận án đã đưa ra các giải pháp về mô hình chủ sở hữu nhà nước và các khuyến nghị trong việc lựa chọn mô hình cũng như điều kiện áp dụng đối với mỗi mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN ở Việt Nam đến 2030. Đồng thời luận án cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện mô hình Ủy ban quản lý vốn nhà nước giải quyết các vấn đề bất cập của Ủy ban sau 03 năm đi vào hoạt động, đồng thời đưa ra những khuyến nghị hoàn thiện mô hình chủ sở hữu nhà nước ở các bộ ngành, địa phương đến năm 2030. Những khuyến nghị của luận án cần tiếp tục nghiên cứu như việc xác định quan điểm, mục tiêu đối với DNCVNN với tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước) để từ đó thiết kế lựa chọn mô hình chủ sở hữu nhà nước cho phù hợp. Việc lựa chọn đúng mô hình chủ sở hữu nhà nước có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến quá trình đổ mới, tái cấu trúc doanh ngiệp có vốn nhà nước. Tuy nhiên, do việc nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi đối tượng và thời gian rộng trong khi khung lý thuyết còn rất hạn chế, việc khái quát mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN là chủ yếu, nên mặc dù có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn luận án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Việc lựa chọn mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN và liên tục hoàn thiện mô hình cho phù hợp với thực tiễn là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, để hiệu quả quản lý nhà nước, thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước không ngừng được nâng lên, hiệu quả hoạt động của DNCVNN tiếp tục được nâng cao, đó cũng chính là mục tiêu của bất cứ Chính phủ nào trong việc quản lý DNCVNN.

Để mô hình chủ sở hữu nhà nước tại DNCVNN ở Việt Nam hoạt động

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2022