Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Minh Bạch Và Công Bố Thông Tin Của Các Công Ty Niêm Yết

của Hieu and Lan thực hiện trên 205 công ty niêm yết phi tài chính tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong năm 2012.

Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Kim Anh (2016) đã xây dựng bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin theo chỉ số T&D của S&P (2002) với 53 tiêu chí và đánh giá thực nghiệm với 278 công ty niêm yết tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2014. Kết quả nghiên cứu của Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Kim Anh (2016) đã phân tích và phát triển chỉ số T&D của S&P theo hướng mở rộng mức độ minh bạch của thông tin công bố (số thông tin công bố).

Chỉ số minh bạch và công bố thông tin của các công ty niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh thay đổi từ 71 điểm đến 88 điểm, trung bình là 78,6 điểm. Độ lệch chuẩn trung bình điểm minh bạch và công bố thông tin giữa các công ty niêm yết thấp (3,2 điểm). Việc mở rộng mức độ thang điểm đã làm tăng điểm của các công ty có tính tuân thủ tốt quy định quản trị công ty. Điểm minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết được tính là tổng số điểm các tiêu chí công ty đã đạt được trong bộ tiêu chí đánh giá. Bộ chỉ số T&D này chưa phát triển đủ rộng bao quát công bố thông tin đặc điểm quản trị công ty và tài chính công ty như luận án thực hiện, điểm trọng số của một số câu trả lời chênh lệch lớn chiếm 57% số câu trả lời. Kết quả nghiên cứu phản ánh điểm minh bạch và công bố thông tin khá cao, và chưa đúng với thực trạng công bố thông tin trên TTCK Việt Nam.

Các khuyến nghị đưa ra từ các nghiên cứu chỉ số đánh giá minh bạch và công bố thông tin là công ty niêm yết muốn cải thiện kết quả quản trị công ty và kết quả kinh doanh cần chú trọng cải thiện 3 lĩnh vực: minh bạch và công bố thông tin; đối xử bình đẳng với cổ đông, chú trọng trách nhiệm Hội đồng quản trị và quy trình điều hành của Hội đồng quản trị. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị có ảnh hưởng lớn đến quản trị công ty, và chất lượng minh bạch và công bố thông tin có tác động lên quản trị công ty. Đặc điểm cơ cấu sở hữu, quy mô công ty, thành phần Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị độc lập là những yếu tố ảnh hưởng đến sự minh bạch và công bố thông tin. Các bộ chỉ số trên được sử dụng như là cơ sở phân tích tham khảo trong quá trình xây dựng bộ tiêu chí minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam của luận án.

Lê Thị Mỹ Hạnh (2015) đã nghiên cứu minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam; tác giả khảo sát báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên Sở GDCK Tp Hồ Chí Minh từ năm 2011-2012. Phương pháp thang đo linker 5 cấp được sử dụng để chấm điểm 13 tiêu chí về minh bạch

thông tin tài chính của 178 công ty niêm yết. Điểm minh bạch công bố thông tin của các công ty niêm yết được tính theo thang điểm 10. Kết quả nghiên cứu cho thấy đòn bẩy tài chính, lợi nhuận (ROE), công ty kiểm toán có mối tương quan thuận với mức độ minh bạch thông tin tài chính; cơ cấu HĐQT có tương quan nghịch với mức độ minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu chỉ số công bố thông tin áp dụng trên TTCK Việt Nam chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến công bố thông tin như là quy mô công ty (Tower et al., 2012; Đặng Ngọc Hùng, 2016; Hieu and Lan, 2017); tỷ lệ sở hữu quản trị (Tower et al., 2012); tỷ lệ sở hữu nước ngoài (Tower et al., 2012; Hieu and Lan, 2017); Hội đồng quản trị và kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT, kiểm toán độc lập, tỷ số lợi nhuận ROE (Đặng Ngọc Hùng, 2016); tỷ số Tobin Q (Lê Trường Vinh, 2008). Các nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin dạng chỉ số của công ty niêm yết đến chi phí vốn và hiệu quả tài chính, lợi nhuận có ít và không phổ biến nên không khuyến khích các công ty thực hiện minh bạch và công bố thông tin của công ty cho cơ quan quản lý thị trường và nhà đầu tư.

2.3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch và công bố thông tin của các công ty niêm yết

2.3.3.1 Quản trị công ty

Nelson and Percy (2005) cho rằng các nhà quản trị công ty bị yêu cầu bắt buộc công bố thông tin và họ có thể công bố ở mức độ thấp hơn nội dung thông tin. Phân tích các công ty tại TTCK Thái Lan, Cheung et al., (2007) đã chỉ ra đặc điểm quản trị công ty có liên hệ chặt với mức độ công bố thông tin. Những công ty có chính sách quản trị tốt thường xếp hạng đầu về tính minh bạch công bố thông tin. Các công ty có ban điều hành chất lượng tốt thì thông tin tài chính công bố tin cậy cao (Aksu and Kosedag, 2006; Stiglbauer, 2010; Nasrolla et al., 2013; Budsaratragoon et al., 2013; Wendy et al., 2015). Các công ty có chỉ số minh bạch trong công bố thông tin thấp thường có các báo cáo tài chính không đầy đủ và địa chỉ web nghèo nàn (Aksu and Kosedag, 2006).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 319 trang tài liệu này.

Thành phần ban quản trị công ty có ảnh hưởng nhiều đến sự minh bạch và công bố thông tin của công ty niêm yết. Nghiên cứu của Andrade et al., (2014) đã chỉ ra số giám đốc độc lập có liên quan đến mức độ che giấu thông tin của công ty. Các công ty áp dụng đạo luật Sarbanes–Oxley (SOX) minh bạch trong công bố thông tin cho các nhà đầu tư, có xu hướng sử dụng các giám đốc độc lập với hội

đồng quản trị công ty. Nghiên cứu của Zhang and Li (2008) cũng có kết quả tương tự. Kết quả nghiên cứu của Rashid et al., (2015) khi phân tích sự liên hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả kinh doanh chỉ ra thành phần ban lãnh đạo và quản trị là một yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch công bố thông tin. Stiglbauer (2010) đã tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa sự minh bạch thông tin về quản trị công ty và hiệu quả công ty với quy mô ban lãnh đạo doanh nghiệp. Các lý thuyết quản trị công ty kết luận rằng tính trách nhiệm xã hội của các cổ đông và người liên quan trong quản trị được thực hiện nghiêm túc sẽ hướng đến các hoạt động minh bạch của công ty và kết quả tốt hơn cho các cổ đông. Ngô Thu Giang và Đặng Anh Tuấn (2013), Nguyễn Thị Phương Hồng và Lê Hoàng Trung (2016), Phạm Ngọc Toàn và Lê Thị Thu Hồng (2017), Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Văn Bảo (2017), Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Thành Long (2017), Trần Kim Anh và Hoàng Hà Anh (2019) tìm thấy có mối tương quan giữa đặc điểm công ty và hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết. Công bố thông tin được thực hiện tốt hơn ở những công ty niêm yết có sự độc lập trong quản lý giữa Ban giám đốc và Hội đồng quản trị. Nghiên cứu của các tác giả Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài (2015), Đặng Ngọc Hùng (2016), Nguyễn Thị Phương Hồng và Lê Hoàng Trung (2016), Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Thành Long (2017) chỉ ra rằng số lượng thành viên Hội đồng quản trị có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của công ty niêm yết. Nguyễn Thị Thu Hảo (2015) kết luận rằng số lượng thành viên Hội đồng quản trị không có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của công ty niêm yết. Nhiều nghiên cứu chỉ ra sự tách rời chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản trị công ty giúp cải thiện hoạt động của công ty niêm yết trong đó có hoạt động công bố thông tin (Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Thành Long, 2017). Sự kiêm nhiệm Tổng Giám đốc của chủ tịch Hội đồng quản trị cũng có ảnh hưởng xấu đến mức độ công bố thông tin của công ty niêm yết (Nguyễn Chí Đức và Hoàng Trọng, 2012; Đặng Ngọc Hùng, 2016).

Minh bạch và công bố thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 7

2.3.3.2 Quy mô công ty

Khi nghiên cứu trên TTCK Frankfurt, Stiglbauer (2010) đã tìm thấy yếu tố quy mô công ty có một mối quan hệ rõ cùng chiều giữa sự minh bạch thông tin về quản trị công ty và hiệu quả công ty. Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) đã chỉ ra yếu tố quy mô công ty có ảnh hưởng cùng chiều với mức độ minh bạch thông tin. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng (2016), Nguyễn Thị Phương Hồng và Lê

Hoàng Trung (2016), Phạm Ngọc Toàn và Lê Thị Thu Hồng (2017), Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Văn Bảo (2017). Điều này cũng phù hợp với xu thế phát triển của các công ty niêm yết trên TTCK, các công ty có quy mô lớn sử dụng các công ty kiểm toán độc lập cho việc phân tích, kiểm tra báo cáo tài chính của công ty làm tăng sự minh bạch thông tin về quản trị công ty và hiệu quả công ty so với các công ty nhỏ trên TTCK (Fongsiri, 2012).

2.3.3.3 Cấu trúc sở hữu

Budsaratragoon et al., (2013) đã chứng minh rằng thành phần cổ đông chính của công ty là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công bố thông tin và chất lượng thông tin về tình hình công ty cho thị trường giá cổ phiếu. Kết quả tương tự cũng đã được tìm thấy trong nghiên cứu của Wendy et al., (2015) tại TTCK các nước OECD. Tỷ lệ sở hữu quản trị của ban quan trị công ty cao sẽ làm tăng tính trách nhiệm và tăng hiệu quả hoạt động của công ty niêm yết (Chen et al., 2003). Stiglbauer (2010) cũng tìm thấy một mối tương quan thuận giữa cấu trúc sở hữu với sự minh bạch thông tin về quản trị công ty và hiệu quả công ty. Tuy nhiên, nghiên cứu của Patel et al., (2002) về tính minh bạch trong công bố thông tin tài chính cho thấy các cổ đông nhỏ nhận ít thông tin hơn các cổ đông lớn trong công ty niêm yết. Sự làm giá trên TTCK của các cổ đông lớn là do sự thông tin bất cân xứng. Tương tự, Rashid et al., (2015) đã tìm thấy tính minh bạch trong công bố thông tin có tương quan nghịch với cấu trúc sở hữu trong công ty.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin. Mức độ công bố thông tin chịu tác động của sở hữu quản trị, sở hữu gia đình, sở hữu nhà nước, sở hữu khối ngoại (Fan and Wong, 2002; Eng and Mak, 2003; Cheng and Courtenay, 2006). Friedman (2002) đã kết luận là công ty có mức độ sở hữu bên ngoài công ty cao, chất lượng công bố thông tin tốt, minh bạch tốt sẽ có lợi nhuận và giá cổ phiếu tốt hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra tỷ lệ sở hữu nhà nước và tỷ lệ sở hữu đầu tư nước ngoài là yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của công ty niêm yết.

Nghiên cứu của Trần Minh Trí và Dương Như Hùng (2011) tại TTCK Việt Nam cho thấy khi tỷ lệ sở hữu quản trị của Ban quản trị công ty nhỏ hơn 59% thì sẽ làm tăng tính trách nhiệm và tăng hiệu quả hoạt động. Khi tỷ lệ sở hữu quản trị vượt quá 59% sẽ dẫn đến vì lợi ích nhóm mà làm giảm đi lợi ích cổ đông nhỏ trong đó có ảnh hưởng đến từ sự minh bạch thông tin. Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài (2015), Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Thành Long (2017) chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu vốn của Hội đồng quản trị có quan hệ ngược chiều với mức độ

công bố thông tin. Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) đã chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài ở công ty niêm yết tại Việt Nam có ảnh hưởng ngược chiều với mức độ minh bạch thông tin. Ngược lại, các nghiên cứu của Ngô Thu Giang và Đặng Anh Tuấn (2013), Nguyễn Thị Thu Hảo (2015), Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài (2015) cho biết rằng hoạt động công bố thông tin tốt hơn tại các công ty có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao. Tỷ trọng sở hữu nội bộ lớn cũng có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động công bố thông tin của công ty niêm yết. Tuy nhiên, nghiên cứu của Trần Quốc Thịnh và Lê Hoàng Việt Hà (2017) lại kết luận rằng sự tập trung quyền sở hữu làm tăng mức độ công bố thông tin kế toán của công ty. Theo Đặng Ngọc Hùng (2016) thì không tồn tại mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và mức độ công bố thông tin.

2.3.3.4 Kiểm soát từ bên ngoài công ty

Ngoài ra, sự kiểm soát từ bên ngoài có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin tài chính công bố. Tùy thuộc vào quy mô công ty và mức độ quản trị công ty mà các công ty kiểm toán độc lập được thuê phân tích, kiểm tra báo cáo tài chính của công ty niêm yết (Bùi Thị Thủy, 2014). Yếu tố công ty kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết (Đặng Ngọc Hùng, 2016; Nguyễn Thị Phương Hồng và Lê Hoàng Trung, 2016). Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hưng và Phạm Quốc Thuần (2016) chỉ ra là công ty kiểm toán độc lập, các áp lực về thuế, niêm yết chứng khoán có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên các báo cáo tài chính của công ty niêm yết. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thu Hảo (2015) cho rằng loại công ty kiểm toán không có tác động đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của công ty niêm yết. Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Văn Bảo (2017) kết luận loại công ty kiểm toán độc lập có ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên các báo cáo tài chính của các công ty niêm yết.

Budsaratragoon et al., (2013) đã chứng minh rằng thành phần cổ đông chính của công ty là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công bố thông tin và chất lượng thông tin công bố. Robert and Marquez (2009) khi phân tích ảnh hưởng của cơ chế quản trị công ty đã tìm thấy việc minh bạch thông tin đem lại sự cân bằng lợi ích giữa ban quản trị công ty và cổ đông ngoài công ty. Tính đại diện giữa ban quản trị và cổ đông có thể ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của minh bạch thông tin và giám sát nội bộ. Friedman (1970) kết luận công ty niêm yết tạo ra mô hình kinh doanh công khai, minh bạch và bảo vệ các nhà đầu tư hơn các loại hình khác và các cổ đông được khuyến khích tham gia giám sát hoạt động của công ty.

Một số yếu tố khác như lợi nhuận, khả năng thanh toán, đòn bẩy tài chính cũng được tìm thấy có ảnh hưởng đến việc công bố thông tin của công ty niêm yết (Phạm Ngọc Toàn và Lê Thị Thu Hồng, 2017).

2.3.3.5 Hệ thống pháp luật về công bố thông tin đối với công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt nam

Yếu tố hàng lang pháp lý là một nguyên nhân có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thông tin công bố và tính minh bạch thông tin của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam (Nguyễn Thị Hải Hà, 2011). Các hành vi gian lận trên TTCK chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ đã làm thông tin cung cấp cho nhà đầu tư nhỏ lẻ chậm không đầy đủ so với các cổ đông lớn của công ty niêm yết. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng này đã gây hại cho TTCK và chính công ty niêm yết (Bùi Thị Thủy, 2014).

Vấn đề minh bạch trong công bố thông tin tài chính, phương pháp định giá trị công ty, kiểm soát các giao dịch tài chính kém đã làm ảnh hưởng đến bảo toàn vốn của các nhà đầu tư cá nhân và nhóm quỹ đầu tư tạo nên hạn chế sự phát triển của thị trường cổ phiếu, trái phiếu trong những năm 2010-2014. Luật kiểm toán độc lập quy định các nguyên tắc kiểm toán báo cáo tài chính đáng tin cậy nhưng còn thiếu các quy định bắt buộc thi hành (Ngân hàng Thế giới, 2014). Công bố thông tin của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam được thực hiện theo hướng dẫn của Luật Kế toán năm 2003, Luật Chứng khoán năm 2006, Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung năm 2010, Luật Doanh Nghiệp năm 2014 và các văn bản dưới luật: Thông tư 52/2012/TT-BTC; Thông tư 121/2012/TT-BTC, Thông tư 200/2014/TT-BTC và Thông tư 155/2015/ TT-BTC (thay thế Thông tư 52). Các quy định về công bố thông tin tập trung vào các mục chính là: đối tượng công bố thông tin, thời hạn công bố thông tin, kết quả kiểm toán, trách nhiệm và nghĩa vụ công bố thông tin của các công ty niêm yết. Việc thực hiện minh bạch thông tin và giám sát công bố thông tin đã góp phần giảm thông tin bất cân xứng giữa các chủ thể kinh tế tham gia TTCK Việt Nam, tạo niềm tin cho công chúng đầu tư vào TTCK và giúp cho TTCK hoạt động ngày càng minh bạch.

2.3.4 Ảnh hưởng của minh bạch và công bố thông tin đến chi phí vốn chủ sở hữu công ty niêm yết

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự quan hệ nghịch chiều giữa thông tin bất cân xứng và mức độ công bố thông tin; mức độ công bố thông tin cao hơn thì làm giảm thông tin bất cân xứng nhiều hơn (Verrecchia, 1982; Glosten and Milgrom,

1985). Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đến chi phí vốn chủ sở hữu dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế học tài chính là mối quan hệ lợi suất với rủi ro. Bất cân xứng thông tin làm tăng rủi ro đầu tư và do đó nhà đầu tư yêu cầu lợi suất cao hơn, tức là chi phí huy động vốn của công ty tăng lên. Thông tin bất cân xứng trong giao dịch làm tăng độ rủi ro qua 3 dạng phổ biến: sự lựa chọn đối nghịch, độ chính xác của lợi suất kỳ vọng, hiện tượng sản xuất thông tin riêng trên thị trường tài chính.

Nghiên cứu của Amihud and Mendelson (1986) cho thấy rằng chi phí vốn cổ phần của những công ty có chênh lệch giá bán-mua cổ phiếu lớn sẽ cao hơn do các nhà đầu tư bị bất lợi thông tin sẽ yêu cầu khoảng bù đắp rủi ro cao hơn do chi phí giao dịch gây ra. Việc cải thiện mức độ thông tin công bố làm giảm sự lựa chọn đối nghịch của nhà đầu tư và làm giảm chi phí vốn cổ phần. Barry and Brown (1985) đã kết luận rằng cải thiện mức độ thông tin công bố có thể làm giảm chi phí vốn cổ phần thông qua việc hạn chế rủi ro ước lượng không thể đa dạng hóa danh mục đầu tư. Công ty có thông tin công bố rộng rãi sẽ làm thay đổi giá cổ phiếu và lượng giao dịch trên thị trường do thay đổi độ tin cậy của thông tin cá nhân nắm giữ (Diamond and Verrechia, 1991; McNichols and Trueman, 1994). Verrecchia (1982) kết luận là minh bạch thông tin làm giảm mức độ bất cân xứng thông tin, chi phí đại diện từ đó giảm chi phí vốn. Có hai dạng chi phí vốn được giảm đi do minh bạch thông tin: tăng tính thanh khoản thị trường do giảm chí phí giao dịch (Amihud and Mendelson, 1986; Diamond and Verrechia, 1991) và giảm rủi ro thông tin cho các nhà đầu tư (Coles et al.,1995). Easley and O’Hara (2004) sử dụng mô hình phân tích đa nhân tố đã chứng minh rằng sự khác biệt thành phần thông tin của thông tin công chúng và thông tin cá nhân ảnh hưởng lên chi phí vốn. Nhà đầu tư luôn yêu cầu lợi nhuận cao hơn với những cổ phiếu bị chi phối bởi thông tin cá nhân. Những công ty bị đánh giá minh bạch và công bố thông tin thấp phải chịu chi phí vốn cao hơn (Ashbaugh et al., 2006).

Nghiên cứu của Chang and Fang (2013) kết luận rằng khi áp dụng hệ thống đánh giá IDTRS tại TTCK Đài Loan đã làm giảm chi phí quản lý ở những công ty có nắm giữ quyền sở hữu quản trị cao. Dựa trên lý thuyết đại diện có thể tìm thấy lý do công ty phải công bố thông tin nhiều hơn vì các nhà đầu tư đặt kỳ vọng làm giảm chi phí vốn từ việc tránh những cơ hội đầu tư sai lầm. Nghiên cứu của Core et al.,(2015) tại 35 nước trên thế giới từ 1990-2004 đã tìm thấy chất lượng thông tin công bố có ảnh hưởng nghịch chiều đến chi phí vốn. Thông tin công bố trực tiếp có ảnh hưởng nghịch chiều đến chi phí vốn của công ty, tuy nhiên, thông tin

công bố gián tiếp có ảnh hưởng thuận chiều đến chi phí vốn. Nghiên cứu Chen et al.,(2004); Yang and Li (2013); Khlif et al.,(2015) ở mức độ thị trường đã kết luận công bố thông tin có ảnh hưởng nghịch chiều đến chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty niêm yết. Công bố thông tin là cơ chế giảm đi chi phí đại diện và làm tăng niềm tin của nhà đầu tư vào công ty. DeBoskey and Gillet (2013) khi nghiên cứu ảnh hưởng của minh bạch thông tin của công ty kết luận rằng minh bạch thông tin có ảnh hưởng chéo giữa xếp hạng tín dụng và chi phí vốn của công ty. Minh bạch thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến xếp hạng tín dụng, chí phí vốn chủ sở hữu và hệ số rủi ro. Chí phí vốn chủ sở hữu và hệ số rủi ro liên kết chặt với nội dung thông tin được công bố minh bạch.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra có mối liên hệ cùng chiều giữa mức độ công bố thông tin và tỷ số nợ. Nghiên cứu của Mazumdar and Sengupta (2005) cho biết công ty công bố thông tin nhiều hơn có chi phí vốn chủ sở hữu và vốn vay thấp hơn. Do đó, tỷ số nợ sẽ có ảnh hưởng đến mức độ thông tin công bố hay tỷ số nợ càng cao thì thông tin công bố càng nhiều hơn (Huang, et al.,2011). Một yếu tố khác là tài sản cố định có quan hệ cùng chiều với mức độ công bố thông tin. Reck and Wilson (2006) cho biết việc cải thiện công bố thông tin trên thị trường trái phiếu sẽ ảnh hưởng đến tính kịp thời trong giao dịch trên thị trường trái phiếu thứ cấp. Mức độ công bố thông tin của công ty sẽ chịu ảnh hưởng khi công ty muốn phát hành trái phiếu. DeFond et al.,(2011) kết luận rằng sự minh bạch thông tin của công ty sẽ giúp công ty phát hành trái phiếu tại thị trường thứ cấp với chi phí nợ thấp hơn. Kết quả tương tự được tìm thấy trong nghiên cứu của Andrade et al.,(2014): sự minh bạch trong công bố thông tin công ty theo đạo luật Sarbanes –Oxley (SOX) đã làm giảm chi phí nợ của 252 công ty niêm yết khảo sát tại Mỹ. Ehsan and Darabi (2015) đã chứng minh sự minh bạch thông tin trong báo cáo tài chính, quản trị, cấu trúc sở hữu đã làm giảm chi phí nợ của các công ty niêm yết. Trong đó, minh bạch thông tin cấu trúc sở hữu và vốn của chủ sở hữu công ty có tương quan nghịch với chi phí nợ của công ty.

Nghiên cứu của Andrade et al.,(2014) cho thấy cải thiện minh bạch và công bố thông tin, độ tin cậy của giá trị cổ phiếu công ty tăng lên và làm tăng số đơn vị đại lý tham gia phát hành cổ phiếu ra thị trường. Qua đó, công ty thu hút nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh doanh giảm nguy cơ thiếu hụt vốn. Việc minh bạch và trung thực thông tin trên báo cáo tài chính cho phép giảm thiểu các rủi ro tài chính của nhà đầu tư nhờ vào các công cụ phân tích mô hình dự báo rủi ro của các công ty niêm yết trên TTCK (Altman, 2000; Đào Thanh Bình và Nguyễn Anh

Xem tất cả 319 trang.

Ngày đăng: 27/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí