Tình Hình Kinh Doanh Fob Theo Thị Trường Năm 2001


cơ bản quyết định sự ổn định và phát triển của công ty. Do đó, công tác

nghiên cứu thị trường được công ty May 10 đặc biệt coi trọng.

Nghiên cứu thị trường nhằm thu thập thông tin thị trường, phân tích tổng hợp để đưa ra những đánh giá và dự báo sát thực về nhu cầu, thị hiếu, xu hướng thời trang trên thị trường, góp phần phục vụ cho hoạt động sản

xuất và tiêu thụ

sản phẩm của bộ

phận kinh doanh trong nước và hoạt

động thiết kế công ty.

của nhóm thiết kế

thời trang thuộc phòng kinh doanh của

Nội dung nghiên cứu thị trường bao gồm các bước:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch nghiên cứu.

Trên cơ

sở nhiệm vụ

công tác do cán bộ

phòng giao hàng tháng,

trưởng nhóm marketing xác định những vấn đề nghiên cứu và phân công cụ

thể

cho nhân viên marketing. Nhân viên marketing tự

xây dựng kế

hoạch

nghiên cứu thị trường cho mình và trình Trưởng phòng kinh doanh phê duyệt. Các vấn đề cần nghiên cứu như màu sắc, chất liệu, kiểu dáng, giá cả, nhãn hiệu, chất lượng sản phẩm, hình thức phân phối, khuyến mại, chất lượng dịch vụ v.v… của từng mặt hàng do công ty sản xuất như áo sơ mi, quần âu, áo jacket, quần áo trẻ em.

Bước 2: Thu thập thông tin.

Sau khi kế hoạch nghiên cứu được phê duyệt, nhân viên marketing có

trách nhiệm thu thập các nguồn thông tin, bao gồm thông tin sơ thông tin thứ cấp.

Thông tin sơ cấp được thu thập qua các kênh như:

cấp và

­ Phiếu hái ý kiến khách hàng: Nhân viên marketing có thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng hoặc gửi phiếu tới khách hàng để lấy thông tin. Nhân viên marketing có trách nhiệm tập hợp và thu hồi số phiếu hỏi ý kiến khách hàng, lưu lại làm nguồn số liệu để phân tích.


­ Báo cáo tình hình bán hàng: Nhân viên marketing tập hợp các báo

cáo, thống kê và tổng hợp số liệu về tình hình bán hàng hàng tuần, hàng

tháng, trình trưởng phòng Kinh doanh duyệt, lưu lại hồ sơ.

­ Báo cáo nghiên cu vnguyên liu: Nhân viên marketing trực tiếp đi khảo sát các cửa hàng, siêu thị vải hoặc nghiên cứu các mẫu vải do các nhà cung cấp vải trong và ngoài nước gửi đến, lùa chọn và ghi chép thông tin bằng Báo cáo nghiên cứu về sản phẩm/nguyên liệu.

­ Thông tin nóng: Thông tin nóng được cung cấp qua điện thoại từ khách hàng hoặc từ các nhân viên bán hàng của công ty.

Thông tin thứ cấp được thu thập qua các kênh như:

­ Thông qua tp chí, cataloge và các mu may sn: Nhân viên marketing trực tiếp đi thực tế khảo sát tại các cửa hàng, siêu thị, hội chợ triển lãm để tìm hiểu, chụp ảnh; hoặc nghiên cứu, tham khảo các tạp chí, cataloge thời trang trong và ngoài nước, sưu tập các mẫu thời trang phù hợp, đánh mã số và ghi chép bằng Báo cáo nghiên cứu về sản phẩm/nguyên liệu để trình trưởng phòng kinh doanh duyệt.

­ Thông qua tạp chí thương mại và tình báo marketing: Nhân viên

marketing có trách nhiệm tìm hiểu thông tin về các đối thủ cạnh tranh qua tạp chí và mạng lưới cộng tác viên của mình và ghi chép bằng Phiếu thông tin dự phòng để trình trưởng phòng kinh doanh duyệt.

Bước 3: Xử lý thông tin

Từ những thông tin thu thập được, nhân viên marketing có trách

nhiệm phân tích các thông tin đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá và kiến nghị bằng Báo cáo phân tích và tổng hợp thông tin để trình Tổng giám đốc duyệt. Sau đó gửi kết quả nghiên cứu tới bộ phận kinh doanh và bộ phận thiết kế [19].


Thông qua các hoạt động nghiên cứu thị trường sẽ giúp công ty May 10 nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng trên từng thị trường để thuận lợi, nhanh chóng và dễ dàng hơn khi thâm nhập thị trường.

1.2 Tiếp cận và mở rộng thị trường

May 10 là xí nghiệp tham gia xuất khẩu sớm, ngay từ năm 1968 đã nhận nguyên liệu của Liên Xô (cũ) và một số nước khác để may và xuất quần áo sang cho bạn. Thị trường chủ yếu của May 10 khi đó là Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Năm 1991, các nước Đông Âu và Liên Xô lần lượt tan rã. May 10 đứng trước một hẫng hụt lớn: hoàn toàn mất thị trường. Đứng trước tình hình đó, công ty có hai sự lùa chọn: mt là, lùa sức mình, tìm thị trường phù hợp; hai là, nhảy vọt, vay vốn lớn, tiếp cận ngay

thị trường cao cấp. Sau khi cân nhắc và xét theo điều kiện của May 10,

công ty đã lùa chọn phương thức thứ nhất, “mèo nhỏ thì bắt chuột con”.

Năm 1988, công ty hợp tác với Hàn Quốc – một nước khá phát triển ở Châu Á. Tuy nhiên đây chỉ là bước tập dượt vì hiệu quả làm ăn với Hàn Quốc

không cao, công ty cần mở

rộng thị

trường. Tăng cường hợp tác với

Hungary, vốn là bạn hàng trước đây của công ty, “hữu xạ tự nhiên hương”, nhờ có uy tín cao, năm 1993 và 1994, một loạt nước Tây Đức, Hà Lan, Nhật

Bản đã đến hợp tác với May 10. Năm 1995 công ty bước vào thị trường

Canada, và sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ rất có triển vọng, công ty đã đề ra mục tiêu chủ động tiếp cận thị trường Mỹ. Từ năm 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường Mỹ liên tục tăng nhanh. Nhờ có thị trường vững, làm ăn khấm khá, công ty lại tiếp tục đầu tư phát triển công nghệ mới, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao. “Thị trường

– phát triển – công nghệ – chất lượng – thị trường – phát triển” luôn là chu trình tiến triển của công ty [6].


Bảng 2.3: Tình hình kinh doanh FOB theo thị trường năm 2001


STT

Thị trư­

ờng

Số lượng

(chiếc)

Trị giá (USD)

% so với tổng

SL

% so với tổng doanh

thu

1

EU

1104068

5108122

90.95

92.39

2

Canada

51300

186875.5

4.23

3.38

3

Mỹ

43409

136010.7

3.58

2.46

4

Nga

9862

84038.8

0.81

1.52

5

Hàn Quốc

5240

13822

0.43

0.25


Tổng

1213879

5528869



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Marketing xuất khẩu và vận dụng trong kinh doanh xuất khẩu ở Công ty May 10 - 8

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình xuất khẩu năm 2001


1.3 Các thị trường xuất khẩu chính của May 10

Lùa sức mình, tìm thị trường phù hợp, đổi mới công nghệ, chủ động

tiếp cận với thị trường cao cấp là hướng đi đúng đắn của May 10 trong

thời gian qua. May 10 đã củng cố và giữ vững được thị trường các nước

EU, Nhật Bản, Hungary, Hồng Kông, Hàn Quốc, đảm bảo tiêu thụ sản

phẩm ổn định từ nhiều năm nay với số lượng lớn. Từ năm 2000 đến nay, May 10 đã và đang mở thêm nhiều thị trường mới rộng lớn đầy tiềm năng như: Hoa Kỳ, Canada, Anh, Liên bang Nga, Đài Loan….Trong số đó công ty đặc biệt chú ý nghiên cứu tìm cách khai thác tốt các thị trường xuất khẩu

hàng hoá sản xuất theo hình thức “mua đứt, bán đoạn” và thị trường phi

quota. Bám sát diễn biến của thị trường để có các giải pháp kịp thời khi có sù thay đổi trên thị trường cũng như tìm kiếm cơ hội trong việc phát triển thị trường mới. Nhờ đó mà sản phẩm May 10 được ưa chuộng tại nhiều thị trường nổi tiếng đòi hỏi khắt khe về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ v.v.., nhiều hãng lớn có tiếng tăm trong ngành may mặc cũng tìm đến hợp tác với công ty như Pierre Cardin (Pháp), GuyLaroche, Maxim, Jacques Britt, Seidensticker (Đức), Dornbush, C&A, Camel, arrow, Report, Structure, Express, Nissho Iwai (Nhật Bản), Grandola (Hungary), Sunkyong Global (Hàn Quốc) v.v…


a. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu

Đây là thị trường có dân số lớn (trên 300 triệu người), là thị trường truyền thống, vốn rất quen thuộc và có quan hệ lâu năm với công ty May

10. Đây cũng là thị trường tương đối dễ

tính, nhu cầu về

hàng may mặc

lớn và không cần hạn ngạch. Trước năm 1990, đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty nhưng do biến động về chính trị kéo theo sự chuyển đổi cơ bản về kinh tế nên quan hệ thương mại giữa hai bên từng bị gián đoạn. Hiện nay yêu cầu của thị trường này về mẫu mã, chủng loại, chất lượng cao hơn trước song nhìn chung đây vẫn là khu vực dễ tính, công ty hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu thị trường khu vực này.

Tuy nhiên, hiện nay công ty đang gặp bế tắc trong việc xuất khẩu

sang thị trường các nước SNG và đặc biệt là thị trường Nga. Nguyên nhân là do:

­ Mặc dù thường được coi là thị trường “dễ tính” nhưng sức mua và nhu cầu của các nước SNG đã thay đổi, yêu cầu về chất lượng, mẫu mã, hình thức sản phẩm ở mức cao với giá cả ở mức chấp nhận được. Hàng phẩm cấp trung bình chỉ tiêu thụ được ở các vùng nông thôn.

­ Việc cạnh tranh với hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở

nên gay gắt hơn. Hàng may mặc Trung Quốc có giá rẻ hơn, đa dạng về

màu sắc, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm, chi phí vận chuyển thấp lại được trợ cấp xuất khẩu. Đặc biệt kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO đến nay, sự cạnh tranh ngày một quyết liệt hơn.

­ Ưu thế lớn nhất của Việt Nam ở Nga là mạng lưới bán buôn, bán

lẻ của người Việt tại Nga. Nhưng hiện nay các mạng lưới này đang

chuyển sang bán hàng của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi văn

phòng đại diện của Vinatex tại Nga lại hoạt động chưa hiệu quả.


­ Chính sách thuế của Nga quy định xếp hàng Việt Nam vào nhóm

các nước như Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc … đã làm cho hàng Việt Nam khó khăn hơn khi cạnh tranh với các nước có trình độ sản xuất cao hơn.

­ Ngoài ra những khó khăn về vận chuyển hàng hoá, thanh toán cũng như biến động về tỷ giá của đồng Rúp đang là trở ngại đối với hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường này.

Để có thể trở lại hoạt động xuất khẩu sang thị trường này, đòi hỏi công ty phải tích cực mở rộng hoạt động tiếp thị, tìm ra phương thức kinh doanh hợp lý và cần có sự can thiệp giữa hai nhà nước để xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này ngày một mạnh mẽ.

b. Thị trường Khối liên minh Châu Âu (EU)

Liên minh Châu Âu (EU) bao gồm 17 nước thành viên (Thuỵ Sỹ, Na Uy mới kết nạp), dự kiến sẽ kết nạp thêm 10 thành viên mới vào năm 2004, với tổng dân số sẽ lên tới 475 triệu người, là khu vực có trình độ kinh tế, kỹ thuật cao. EU có lịch sử phát triển ngành dệt may lâu đời, là trung tâm mốt thời trang với nhiều công ty tạo mốt thời trang nổi tiếng thế giới, và là trung tâm

thông tin lớn nhất về

mốt của thế

giới. Là khu vực có kỹ

thuật sản xuất

những sản phẩm may mặc cao cấp truyền thống, EU đồng thời cũng là thị trường có nhu cầu tiêu thụ về hàng dệt may rất lớn, đa dạng, phong phú và tinh tế. Mức chi tiêu cho hàng may mặc năm 2000 là 212 tỷ Euro, đứng thứ hai sau chi tiêu cho thực phẩm, rau quả. Mức tiêu thụ ở thị trường này vào loại cao trên thế giới: 17 kg vải/người/năm. Thị trường EU yêu cầu về tính thẩm mỹ và thời trang rất cao, nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10 – 15%, còn 85 – 90% là theo mốt [11].

Người tiêu dùng hàng may mặc ở EU được chia làm bốn nhóm: nhóm dẫn mốt, nhóm ăn mặc đứng đắn, nhóm sau mốt và nhóm thực dụng. Trong


đó, tỷ lệ nhóm dẫn mốt cao nhất là Tây Ban Nha, Bỉ, Italia, Đan Mạch,

Đức. Tỷ lệ những người dẫn mốt thấp nhất là ở Anh. Nhóm những người thực dụng và nhóm những người sau mốt chiếm khoảng 70 – 75% (theo nghiên cứu của David Aspinall), nên sản phẩm hàng dệt may vào thị trường này đòi hỏi sự kết tinh của chất xám và có giá trị cao [10].

Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào thị trường EU không ngừng tăng với tốc độ cao. Đặc biệt, từ sau Hip định buôn bán hàng dt may gia Vit Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ bình quân trên 23%/năm, đưa hàng may mặc trở thành nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai (sau dầu thô) của Việt Nam. Các nước EU nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam là Đức: 41%, Pháp: 14%, Hà Lan: 12%, Italia: 9% và các nước khác là 18% [11]. EU hiện vẫn là thị trường hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Tuy bị giới hạn về hạn ngạch nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU năm 2001 đạt gần 600 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2002 đạt gần 450 triệu USD, là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất về hàng dệt may của Việt Nam trong thời điểm hiện nay, chiếm trên 40% tổng số sản phẩm và giá trị kim ngạch của toàn ngành may mặc Việt Nam.

Bộ thương mại cho biết Liên minh Châu Âu đã tăng thêm cho Việt Nam

25% trong tổng hạn ngạch năm 2002 với trị giá khoảng 150 triệu USD. [7] Thị trường EU là một trong các thị trường lớn truyền thống của May

10, trong đó thị

trường Đức và thị

trường Anh là hai thị

trường tiêu thụ

nhiều nhất sản phẩm may mặc của công ty. Để

đáp

ứng những đòi hỏi

khắt khe của thị trường EU về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, những năm qua May 10 đã không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã và hình thức sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường này


không ngừng tăng với tốc độ

cao, trung bình tăng từ

15 – 20%. Các mặt

hàng của công ty thường xuất sang thị trường này là: áo sơ mi, áo jacket, quần âu. Năm 2001 công ty xuất sang EU 943000 chiếc áo sơ mi nam (cat 8), 30800 chiếc áo sơ mi nữ (cat 7), 5490 chiếc áo khoác nữ (cat 15), 7500 chiếc quần (cat 6) và 8,4 tấn quần áo (cat 78). Riêng mặt hàng áo sơ mi của công ty đứng đầu trong số các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU. Dự kiến năm 2003 công ty sẽ xuất trên 1,2 triệu chiếc áo sơ mi sang thị trường EU. Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của May 10 sang EU

Đơn vị: 1000USD


Năm

1998

1999

2000

2001

11/2002(*)

EU

3696

3705

4868

5400

5520

(*): Sè liệu tính đến hết tháng 11, Phòng kế hoạch Nguồn: Báo cáo tình hình xuất khẩu năm 1998 ­ 2001

Tuy nhiên cũng giống như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi xuất sang thị trường EU, công ty May 10 cũng gặp phải những khó khăn sau:

­ Bước vào năm 2002, kinh tế thế giới chưa được cải thiện nhiều,

sức mua giảm nên thị trường xuất khẩu hàng dệt may không được mở

rộng. Việc Trung Quốc và Đài Loan trở thành thành viên chính thức của

WTO đã tạo sức Ðp thực sự với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt

may. Năm 2002 Trung Quốc được EU bãi bỏ 34 chủng loại hạn ngạch,

trong đó có 10 chủng loại (cat) EU vẫn áp dụng với Việt Nam [8].

­ Theo nội dung Hiệp định về

hàng dệt may thế

giới (agreement on

Textile and Clothing ­ ATC) sẽ dỡ bỏ hoàn toàn quota cho các nước thành viên WTO vào năm 2005. Song để bảo hộ ngành dệt may của mình có thể EU, Mỹ sẽ dựng các rào cản nhập khẩu mới như yêu cầu về nhãn mác, sinh thái, môi trường, điều kiện lao động theo SA 8000….Công ty cần chú trọng đến yếu tố môi trường và xã hội cũng như điều chỉnh chiến lược phát triển cho phù hợp với sự thay đổi trong thời gian tới.

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí