Khái Quát Chung Về Quyền Sử Dụng Các Đối Tượng Shcn

Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc quyền SHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì dẫn đến nguy cơ thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai mà có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, từ đó chiếm lĩnh thị phần và dần loại các sản phẩm hợp pháp ra khỏi thị trường. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính khó có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.

1.1.2 Đặc điểm quyền SHCN

Xuất phát từ tính đặc thù của các đối tượng SHCN, quyền SHCN có những đặc điểm khác với các quyền sở hữu tài sản hữu hình và khác với quyền tác giả- một bộ phận của quyền SHTT.

Thứ nhất, khi so sánh quyền SHCN với quyền sở hữu tài sản hữu hình, quyền SHCN có các đặc điểm cơ bản sau:

- Quyền SHCN là mộttài sản vô hình. Tài sản vô hình là tất cả những gì không thể cầm, nắm, giữ nhưng lại có thể mang lại giá trị thặng dư và được

quy đổi giá trị thành tiền hoặc những tài sản hữu hình có giá khác. Ở những công ty lớn, những tập đoàn đa quốc gia thì tài sản giá trị nhất của họ không nhất thiết phải là là tài sản hữu hình mà có thể là những giá trị vô hình. Ví dụ, giá trị của công ty Coca Cola phần lớn nằm ở nhãn hiệu của công ty này. Theo hãng tư vấn thương hiệu hàng đầu thế giới Interbrand, nhãn hiệu Coca Cola có giá trị hơn 80 tỷ USD vào năm 2014. Rõ ràng, giá trị thực tế của công ty này không nằm ở tài sản hữu hình. Các tài sản vô hình tạo ra giá trị không phải nhờ vào các giá trị thuộc tính vật chất mà nhờ vào nội dung trí tuệ của nó [13]. Ngược lại đối với tài sản hữu hình, là những tài sản có thể cầm, nắm, giữ và đối với một số quyền tài sản lại được xác định bằng lượng vật chất cụ thể.

- Quyền sử dụng là quyền quan trọng nhất trong nội dung quyền SHCN. Đối với một tài sản là đối tượng SHCN, người ta thường chỉ khai thác được những lợi ích vật chất từ nó thông qua quyền sử dụng. Lý do khẳng định quyền sử dụng các đối tượng SHCN là nội dung quan trọng nhất của quyền SHCN là bởi vì tất cả những lợi ích về kinh tế, vật chất của một đối tượng SHCN đều được khai thác thông qua quyền sử dụng. Một chủ thể khi có được quyền sử dụng đối với đối tượng quyền thì mới có thể khai thác những công dụng của nó và thông qua quyền sử dụng chủ thể mới thu nhận được những gì họ mong muốn từ đối tượng SHCN.Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thì dường như quyền chiếm hữu là quyền năng quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình, trong hầu hết các trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu được tài sản thì mới có khả năng khai thác được công dụng của nó.

- Phạm vi bảo hộ quyền SHCN hẹp hơn so với quyền sở hữu tài sản thông thường. Các đối tượng SHCN thường được bảo hộ trong khoảng thời gian xác định (tuy có một số đối tượng không xác định thời hạn bảo hộ) và trong phạm vi lãnh thổ nơi quyền SHCN đối với các đối tượng đó được xác

lập. Còn đối với sở hữu tài sản thông thường, pháp luật không hạn chế phạm vi bảo hộ.

Thứ hai, khi so sánh quyền SHCN với quyền tác giả, thì quyền SHCN có những đặc điểm sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

- Quyền SHCN hướng tới sự bảo hộ nội dung của ý tưởng sáng tạo.Quyền SHCN bảo hộ đối tượng thông qua các quy định cấm người khác không được sử dụng đối tượng đang được bảo hộ để thu lợi nhuận mà không được sự cho phép của chủ sở hữu. Bảo hộ quyền SHCN cũng chú trọng bảo hộ quyền tài sản hơn quyền nhân thân đối với đối tượng SHCN. Trong khi đó, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức của ý tưởng sáng tạo và các quyền nhân thân được chú trọng bảo hộ hơn so với bảo hộ quyền nhân thân đối với chủ thể sáng tạo ra đối tượng SHCN.

- Quyền SHCN đối với các đối tượng SHCN được xác lập thông qua việc cấp văn bằng bảo hộ đối tượng SHCN của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc có thể được bảo hộ tự động nếu các đối tượng SHCN đáp ứng những điều kiện bảo hộ tự động theo quy định của pháp luật. Đối với quyền tác giả, việc đăng ký bảo hộ quyền chỉ mang tính khuyến khích và không bắt buộc. Quyền tác giả được bảo hộ tự động ngay từ khi tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức nhất định.

Chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam - 3

Như vậy, khi so sánh giữa quyền SHCN với quyền sở hữu các tài sản hữu hình và so sánh với quyền tác giả thì quyền SHCN có những đặc điểm nêu trên.

1.2 Khái quát chung về quyền sử dụng các đối tượng SHCN


1.2.1 Khái niệm quyền sử dụng các đối tượng SHCN

Như đã phân tích, quyền sử dụng đối tượng SHCN là quyền năng quan trọng nhất của quyền SHCN, bởi vì chỉ khi thông qua quyền sử dụng đối tượng SHCN chủ thể quyền mới có thể có được những lợi ích vật chất từ đối

tượng SHCN. Nội dung quyền sử dụng đối tượng SHCN được xác định dựa trên tính chất, chức năng của mỗi đối tượng SHCN. Chính vì vậy, khái niệm quyền sử dụng các đối tượng quyền SHCN cũng phải thể hiện được điều này.

Có thể hiểu, quyền sử dụng đối tượng SHCN là quyền cho phép chủ sở hữu đối tượng SHCN độc quyền khai thác đối tượng SHCN của mình dưới những hình thức do pháp luật quy định. Nội dung quyền sử dụng đối tượng SHCN thực chất xuất phát từ các hành vi khai thác thương mại đối với các đối tượng SHCN. Đối với mỗi đối tượng SHCN thì pháp luật lại quy định những dạng hành vi cụ thể thuộc độc quyền khai thác thương mại của chủ sở hữu đối tượng SHCN. Ví dụ, đối với nhãn hiệu, quyền sử dụng nhãn hiệu là việc chủ thể quyền thực hiện các hành vi như gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh… hay lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ. Đối với sáng chế, quyền sử dụng sáng chế là quyền cho phép chủ sở hữu khai thác đối tượng SHCN thông qua các hành vi như sản xuất sản phẩm được bảo hộ, áp dụng quy trình được bảo hộ v.v. Tức là, quyền sử dụng đối tượng SHCN được pháp luật quy định giới hạn trong những hành vi cụ thể. Chỉ khi thực hiện những hành vi đó thì mới được coi là sử dụng đối tượng SHCN và chủ sở hữu đối tượng SHCN có độc quyền thực hiện những hành vi đó. Khi thực hiện những hành vi này, chủ sở hữu quyền mang lại cho mình những lợi ích vật chất mà họ mong muốn.

Một tài sản vô hình là đối tượng SHCN khi được một người sử dụng sẽ không làm thuyên giảm tính hữu ích của nó đối với những người khác. Điều này đồng nghĩa với việc, một đối tượng SHCN có thể cùng được sử dụng bởi nhiều chủ thể khác nhau và khi các đối tượng SHCN được sử dụng càng nhiều thì lợi ích nó mang lại cho chủ sở hữu đối tượng SHCN và xã hội sẽ càng lớn. Ví dụ, A được pháp luật bảo hộ sáng chế cho một công thức thuốc chữa bệnh nhất định. Nếu công thức này được chuyển quyền sử dụng cho

nhiều chủ thể cùng lúc thì nó không chỉ mang lại cho A những lợi ích về mặt kinh tế đối với việc kinh doanh thương mại quyền sử dụng công thức thuốc chữa bệnh của mình mà lợi ích mang lại cho xã hội khi sử dụng công thức thuốc chữa bệnh này cũng không thể phủ nhận.

1.2.2 Đặc điểm quyền sử dụng các đối tượng SHCN

Để phân biệt với các quyền sử dụng tài sản sản khác, quyền sử dụng đối tượng SHCN cũng có những đặc điểm, đặc trưng riêng biệt.

Thứ nhất, quyền sử dụng đối với mỗi đối tượng SHCN không giống nhau do tính chất và chức năng sử dụng của từng đối tượng SHCN là khác nhau. Đối với các giải pháp kỹ thuật như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, quyền sử dụng được xác định dựa vào tính chất của mỗi đối tượng. Trong khi đối với các chỉ dẫn thương mại quyền sử dụng lại được xác định dựa theo chức năng của mỗi đối tượng này. Ví dụ, chức năng của nhãn hiệu là dùng để giúp người tiêu dùng có thể phân biệt và nhận dạng các loại hàng hóa, dịch vụ cùng loại và là cách thức chỉ dẫn cô đọng nhất về sản phẩm mang nhãn hiệu.Chức năng của tên thương mại dùng để phân biệt, cá thể hóa chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác. Như vậy, việc quy định các hành vi sử dụng các đối tượng SHCN phải phụ thuộc vào từng đối tượng cụ thể.

Thứ hai, phạm vi quyền sử dụng đối tượng SHCN bị giới hạn trong những hành vi cụ thể theo quy định của pháp luật. Điều này được thể hiện ở việc pháp luật quy định cụ thể về các hành vi được coi là sử dụng đối tượng SHCN và chủ sở hữu đối tượng SHCN có độc quyền trong việc thực hiện những hành vi sử dụng đó. Trường hợp một chủ thể khác thực hiện hành vi sử dụng đối tượng SHCN mà không thuộc các hành vi đã được luật định thì không được coi là sử dụng quyền SHCN với đối tượng đó, và do đó không bị coi là vi phạm quyền SHCN. Đây cũng chính là sự khác biệt cơ bản giữa

quyền sử dụng đối tượng SHCN và quyền sử dụng tài sản hữu hình. Đối với tài sản hữu hình, pháp luật không có quy định về hình thức sử dụng cụ thể. Chủ thể có quyền sử dụng đối tượng là tài sản hữu hình và có thể sử dụng tài sản đó dưới mọi dạng thức theo ý chí của bản thân, miễn là không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể khác.

Thứ ba, quyền sử dụng đối tượng SHCN có thể được khai thác bởi nhiều chủ thể khác nhau trong cùng một thời điểm. Chủ sở hữu quyền SHCN có thể cho phép nhiều chủ thể khác nhau cùng sử dụng đối tượng SHCN của mình thông qua việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN cho các chủ thể khác.

1.3 Khái niệm, đặc điểm và hình thức chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng quyền SHCN

1.3.1 Khái niệm chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN

Như đã phân tích ở phần trên, thì quyền sử dụng đối tượng SHCN được hiểu là việc pháp luật cho phép chủ sở hữu khai thác các lợi vật chất từ đối tượng SHCN dưới những hình thức do pháp luật quy định. Theo đó, chủ sở hữu đối tượng SHCN có thể thực hiện những hành vi đó nhằm thực hiện quyền sử dụng của mình. Chủ sở hữu quyền cũng có thể sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN của mình cho người khác.

Chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN (sau đây gọi là chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN) là việc chủ thể có quyền sử dụng đối tượng SHCN cho phép các cá nhân, tổ chức khác sử dụng đối tượng SHCN thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Việc chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN chỉ được thực hiện đối với những hành vi sử dụng đối tượng SHCN do pháp luật quy định. Điều này thể hiện ở đặc điểm thứ hai của quyền sử dụng đối tượng SHCN như đã phân tích phần trên.

Chủ thể có quyền chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có thể là chủ sở hữu các đối tượng SHCN hoặc là bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN và được chủ sở hữu cho phép chuyển giao cho bên thứ ba.

Chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN là một hình thức khai thác thương mại đối với đối tượng sở hữu công nghiệp, qua đó chủ sở hữu đối tượng SHCN thu về một khoản tiền (phí chuyển quyền sử dụng) hoặc lợi ích vật chất khác mà không phải trực tiếp sử dụng đối tượng SHCN. Ngoài ra, chuyển quyền sử dụng còn góp phần phổ biến công nghệ, nâng cao hiệu quả đầu tư nghiên cứu - triển khai, hạn chế độc quyền và thúc đẩy việc tạo ra công nghệ mới. Vì vậy, có thể nói rằng, chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN đem lại lợi ích cho cả chủ sở hữu quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, người được chuyển quyền sử dụng và toàn xã hội nói chung [8].

1.3.2 Đặc điểm chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN

Chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN là một loại chuyển quyền đặc biệt bởi tính vô hình của đối tượng được chuyển giao. Sự khác biệt này tạo nên những đặc điểm cơ bản của chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN. Những đặc điểm này giúp chúng ta thấy rõ được bản chất của chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN và, thêm vào đó, nhấn mạnh sự khác biệt của hoạt động chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN với các hoạt động chuyển quyền sử dụng các tài sản hữu hình. Chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có ba đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, các hành vi độc quyền sử dụng đối tượng SHCN có thể được chuyển giao độc lập với nhau.

Ví dụ, A là chủ sở hữu quyền SHCN đối với một kiểu dáng công nghiệp. A có thể thực hiện quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp của mình thông qua các hành vi sau:

- Sản xuất các sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được pháp luật bảo hộ bảo hộ;

- Lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ;

- Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ.

Vì các hành vi độc quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp có thể được chuyển giao độc lập với nhau nên A có thể chuyển giao quyền lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp mà không cần phải chuyển giao quyền nhập khẩu sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ.

Mặc dù, khi tham gia vào chuyển quyền sử dụng thì các bên đều có mong muốn có được những hợp đồng với phạm vi chuyển giao quyền rộng nhất có thể. Tuy nhiên, bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN vẫn có thể chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ quyền sử dụng của mình.

Trong nội dung chuyển quyền sử dụng các đối tượng quyền tác giả, pháp luật có quy định rất rõ ràng rằng, chủ sở hữu quyền tác giả có thể chuyển giao một hoặc một số quyền sử dụng đối tượng quyền tác giả. Tuy nhiên, pháp luật về chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN chưa có quy định rõ về vấn đề này.

Thứ hai, quyền sử dụng đối tượng SHCN chỉ được chuyển giao trong lãnh thổ và thời gian được bảo hộ. Đây chính là đặc điểm về phạm vi chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN. Theo đó, hoạt động chuyển quyền này phải được thực hiện phù hợp với phạm vi bảo hộ quyền SHCN đối với đối tượng SHCN.

Ví dụ, A là chủ sở hữu quyền SHCN đối với một sáng chế. Thời hạn bảo hộ quyền SHCN đối với sáng chế của A chỉ còn lại 5 năm trong thời hạn của văn bằng bảo hộ đối với sáng chế đó thì thời hạn hợp đồng chuyển quyền sử

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 25/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí