Thần Phả Đình, Đền Cổ Trai (Xã Hồng Minh, Huyện Hưng Hà, Thái Bình (Theo Cuốn “Cổ Trai Xưa Và Nay” Của Cụ Vũ Văn Quỳ, Tài Liệu Nội Bộ)


Trần là những họ lớn nhận thấy Thiền sư đạo cao đức trọng, kinh điển tinh thông. Họ bèn đón Thiền sư về thiết lập trai đàn, cúng tế phổ độ gia tiên trong khoảng 21 ngày đêm.

Lúc bấy giờ, ở xã Giang Xá có một ngôi chùa nhỏ, dựng bên dòng sông con, nhân dân thấy vị Thiền sư ấy, có đức hạnh, bèn nghênh đón vào trong ấp. Họ kính cẩn xin Thiền sư trông coi ngôi chùa nhỏ.

Thiền sư vui vẻ thấy cảnh chùa phong quang, sáng sủa, phong tục thuần mỹ, bèn nói: “Chùa tuy nhỏ, nhưng phong cảnh thật đẹp!”.Thiền sư bèn nhận lời trông giữ chùa cảnh.

Từ đấy, Thiền sư về sống ở đất Giang Xá, trụ trì ngôi chùa Linh Bảo. Bấy giờ vào năm Ất Mùi, Vua 13 tuổi, theo Thiền sư về sống ở đất này. Cũng thời kỳ ấy, Thiền sư nhận Vua làm đệ tử cho thụ giáo nhập học đạo pháp.

Vua là bậc có khí phách thanh kỳ, có đức độ, quy mô to lớn, lại do tính trời thông minh, đất chung đúc tú khí, sẽ ở vào địa vị Đế vương. Trời có chủ định sinh ra một người có khí chất không như hạng bình thường vậy. Thời ấy, ở chùa có ban thờ Long thần Chủ tể, hết sức linh ứng từ lâu đời. Từ ngày Vua ở trong chùa, mỗi khi tụng niệm xong rồi, Vua thường thường tọa thiền gần sát với ban thờ Long thần, không để lộ cho Thiền sư biết.

Một hôm, Vua đến ngồi trước Long thần, thần thấy Vua ngồi, bỗng nhiên cả bức tượng cử động, rồi đứng dậy. Một ngày, có kẻ gian ăn trộm mất bộ áo cà sa và chiếc mũ Phật. Thiền sư không thể tìm được, bèn mắng Vua là không giữ cẩn thận.

Vua rất bực mình, bèn đến trước ban thờ Long thần, lấy tay chỉ vào tượng mà nói: “Trời giao cho ngươi coi giữ trong chùa, quyền hành làm chúa tể cảnh Già Lam, được người trong ấp ký thác lộc cho! Làm sao lại thiếu cảnh giác khiến bọn trộm cắp đột nhập vào chùa, lấy trộm mất pháp giới, áo mũ của Thiền sư, đã chịu nhận lỗi lầm chưa? Hôm nay, Ta giáng phạt ngươi nhưng cho lưu lại trong chùa. Vua bèn lấy bút viết lên bức tượng mấy chữ: “Ta nay giáng phạt Long thần nhưng cho lưu tại chùa!”.

Vừa viết xong, thì sắc mặt Long thần đang từ mầu xanh chuyển thành mầu


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 281 trang tài liệu này.

lam. Chỉ trong chốc lát, kẻ gian trộm cắp, bỗng nhiên hai tay tự trói, đem áo mũ đến nộp. Từ đó, trong dân chúng đại chấn động, cả người lẫn vật không yên ổn.

Bấy giờ, nhân dân Giang Xá rất kinh sợ, bèn thiết lập một tế đàn cầu xin trời đất cho được bình an. Công việc xong xuôi, đêm ấy, nhân dân và hương chức hành lễ rồi trở về nhà, nằm ngủ cùng mơ thấy một vị quan đội mũ ngọc, mặc giáp vàng lộng lẫy, ngoài khoác long bào đẹp đẽ, sáng láng, thân cưỡi một con tuấn mã sắc trắng, theo sau có vài đứa tiểu đồng. Vị quan dáng điệu đường hoàng tiến thẳng tới nơi nhân dân Giang Xá đương hội họp, bèn xuống ngựa bước vào ngồi xuống giữa nhà.

Lý Nam Đế trong đời sống văn hóa của cư dân vùng Châu thổ Bắc Bộ - 23

Nhân dân đều hỏi rằng: “Dám hỏi quan từ đâu đến?”.

Vị quan trả lời: “Ta là Long thần chủ tể của chùa này. Bậc thần nhân là vua Lý Bí đến tu tại chùa của ta. Do ta sơ suất bất cẩn, đến nỗi để kẻ trộm đột nhập vào trong chùa, đánh cắp y phục của Thiền sư. Vua bèn chỉ vào ta giáng phạt nhưng cho lưu lại chùa. Không có ai xin hộ cho, nên Vua đã từ bỏ ta, lại còn trách tội đến người dân sở tại, nói ra không hết được!”.

Nhân dân bỗng tỉnh lại, biết rằng đó là giấc mộng cho là việc kỳ lạ. Ngày hôm ấy, mọi người cùng nhau hội họp, cố nhớ mọi chuyện, rồi định đem việc mộng nói với Thiền sư. Họ cùng tới chùa định gặp Thiền sư, bèn gọi chú tiểu Lý Bí. Nhân dân nhận ra người ở trong giấc mộng, nên đều phục tùng mà kinh sợ chú tiểu, và không dám tiết lộ câu chuyện trong mộng với Thiền sư nữa.

Họ cùng nhau đến bên tượng Long thần, nhìn kỹ, xem có thật là phía sau lưng của tượng có hàng chữ: “Ta giáng cấp ngươi nhưng cho lưu tại chùa”không? Nhìn ra thì quả có hàng chữ ấy thật! Ngày hôm ấy, nhân dân bèn trở về nhà, sắm một cỗ lễ chay, rồi cùng nhau dâng lên chùa. Nhân dân bạch với Thiền sư rằng:

“Trong ấp, người và vật đều không được yên ổn. Nay thấy trong giấc mộng, Long thần rất nể phục chú tiểu Lý Bí. Chú tiểu đã trách tội Long thần, do đó, trách phạt đến nhân dân. Nay, xin sắm sửa cỗ lễ chay, xin với Thiền sư nói giúp với chú tiểu Lý Bí, khẩn khoản xin từ bỏ lời trách lỗi Long thần, thì may ra nhân dân mới được yên ổn!”.


Thiền sư nghe người dân nói như vậy, bèn gọi Vua tới, mà bảo:

“Nhà ngươi có ý trách Long thần, đến nỗi nhân dân trong ấp bị chấn động. Nay họ có đem lễ phẩm đến xin tạ lỗi. Họ nói như thế… như thế…! Ngươi hãy mau gặp Long thần, mà nói tha thứ lỗi lầm cho. Nếu Long thần được miễn tội, ắt là người dân trong ấp sẽ được bình yên”.

Vua bèn tuân theo lời chỉ bảo của Thiền sư, rồi đến trước Long thần, nhân dân cùng đi theo sau mà hành lễ. Long thần vừa nhìn thấy Vua, bỗng nhiên biến sắc, toàn thân chuyển động, mồ hôi vã ra như tắm! Vua bước tới sau lưng tượng bèn xóa đi những chữ viết trước đó. Vừa xóa xong thì sắc mặt Long thần vui vẻ trở lại. Tượng gỗ cử động thân mình tựa như đang hành lễ. Nhân dân thấy thế, hết sức kinh sợ. Từ đó trở đi trong ấp mọi người nhất nhất đều được yên bình, thịnh vượng.

Lại nói, Vua ở với Thiền sư tại ngôi chùa Giang Xá được khoảng hơn 10 năm. Lúc ấy, Vua chừng 25 tuổi. Vua là bậc thông minh, trí tuệ, đại tài, có đức độ, khí lượng anh hùng, siêu quần bạt chúng hơn người. Các bậc anh hùng trong thiên hạ đều nể phục Vua. Người xa gần trong nước đều tin theo Vua. Đấy là do ý trời đã thuận… Lẽ nào khi chiêu mộ dân chúng lại không theo về với Vua?

Bấy giờ, Vua chiêu mộ được những trai tráng trong huyện và trong ấp được

3.000 binh lính. Ngay ngày hôm ấy (tức ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch), Vua hội binh tại chùa Giang Xá, rồi tổ chức hành lễ tế trời đất, bách thần. Vua cầu xin: “Thần âm phù cho sau này hoàn thành đại nghiệp khôi phục quốc gia. Nếu như trời đất, bách thần ưng thuận, lại thấy tôi tài đức xứng đáng được ở chức vị trời trao, thì xin trời đất ban cho một trận mưa xuống đàn tế!”.

Vua vừa cầu xong, bỗng nhiên trời đất tối sầm, sấm chớp ầm ầm, mưa to đổ xuống giữa đàn tế. Lại thấy đám mây ngũ sắc bay từ trên trời xuống dừng lại ở đàn tế. Vua thầm nghĩ đây hẳn là điềm đại hưng thịnh vậy. Cuộc tế lễ cũng vừa xong.

Ngày hôm đó (tức ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch), Vua tập hợp sĩ tốt, chọn tướng, tuyển binh, rồi cùng phong các chức tả, hữu văn vò, phụ trách tiền binh, hậu binh. Hôm ấy, Vua tới hành lễ bái biệt Thiền sư, dẫn binh tiến vào vùng đất châu Dã Năng, xây dựng đồn sở. Vua cắt đất để phân cho quân lính ở, lại sai tướng coi


quân, lập đồn khống chế các con đường, giữ vững để cự chiến với quân lính của Thái thú nhà Lương.

Vua tự xưng là: Lý Nam Đế. Từ đó, Vua thường đánh nhau với quân nhà Lương, chúng thất bại phải chạy trốn về phương Bắc. Bấy giờ có viên Tù trưởng Chu Diên là Triệu Túc, phục tài đức của Vua, bèn dẫn đầu quân chúng theo về. Tiêu Tư biết việc ấy, đem của đến hối lộ cho Vua, rồi chạy về Quảng Châu. Vua lại lưu con của Triệu Túc là Triệu Quang Phục ở bên cạnh để phụ giúp việc nước.

Từ đó, Vua chiếm cứ châu thành (tức thành Long Biên). Vua lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức.

Vua Lương lại sai Lư Tử Hùng, Tôn Quýnh tiến binh sang cùng với binh tướng của Tiêu Tư cự chiến với Vua. Vua bèn tiến binh. Lúc ấy, Triệu Quang Phục (sau này là Triệu Việt Vương), được Vua phong cho làm Đại tướng Thống chế quân Tiền binh, dẫn quân tiên phong đánh lại quân Lương. Quân Lương nhiều lần thất bại ở đất Giang Tây, ta chém hơn một nghìn đầu giặc, thây giặc rơi xuống sông, khiến nước sông không chảy được.

Vua lại truyền lệnh sửa soạn binh tướng đánh vào châu Cửu Đức, vua Lâm Ấp bại trận phải bỏ chạy. Nhân thắng lợi ấy, Vua xưng là: Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Trăm quan đều chúc Vua: Vạn tuế. Những vùng đất như: Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động đều được Vua phong làm Thang mộc ấp. Người dân ở các đất trên xin Vua cho được dựng sinh từ (đền thờ khi Vua còn sống) và cũng để sau này có nơi để thờ cúng Vua. Vua chấp thuận lời cầu xin ấy.

Từ đó trở đi Vua tôi hiệp đức, trong nước thanh bình. Vua ở ngôi được 7 năm (541-547).

Vào tháng 6 năm Ất Sửu, Vua Lương lại sai Dương Thiêu làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm Tư mã, đem quân sang xâm lược. Vua nghe tin quân Lương đã tiến đến nước Việt ta. Vua đem 3 vạn quân ra chống cự. Quân Lương tiến đánh Chu Diên, Vua bị thua, bèn kéo đến sông Tô Lịch, Vua lại thua.

Vua trở về đất Giang Xá muốn tham vấn Thiền sư. Hôm ấy, nhân dân hành lễ


đón Vua, Vua tạm đóng quân lại. Quân Lương đuổi tới nơi lại đánh nhau một trận với Vua. Vua thắng được.

Vả lại, quân Lương mỗi ngày một mạnh lên. Vua lại đóng quân ở Giang Xá. Chính khoảng thời gian này, ở các xã, các tổng thuộc huyện Đan Phương, Vua cứ đóng quân tại đất nào, chỉ một, hai ngày sau, nhân dân đều lập miếu thờ phụng.

Vua lại dẫn quân chạy về thành Gia Ninh. Quân Lương đuổi theo vây đánh. Khi ấy, quân Lương đánh chiếm được thành Gia Ninh. Vua lánh vào đất của người Lạo ở Tân Xương (tên huyện thuộc Phong Châu). Quân Lương đóng chặt ở cửa sông Gia Ninh. Vua lại đem 2 vạn quân từ đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt. Quân Lương đánh nhau với Vua trong khoảng thời gian hơn 5 tháng. Một hôm, thừa dịp đêm ấy nước sông đột ngột lên mạnh, quân lương reo hò mà tiến. Vua vốn không phòng bị, vì thế tan vỡ, phải lui giữ động Khuất Lão để sửa binh đánh lại, ủy quyền cho Đại tướng Triệu Quang Phục cự chiến với quân Lương.

Từ năm Bính Dần (546) đến năm Đinh Mão (547), Đại tướng Triệu Quang Phục và tướng nhà Lương Trần Bá Tiên giằng co nhau bất phân thắng bại.

Đời sau có thơ rằng:

Thư hùng vị quyết tại hà nhân

Lưỡng tướng giai đồng báo nghĩa quân. Thiết thạch nhất tâm ư quốc sự

Danh chiêu thiên cổ thử trung thần.

Dịch thơ:


Anh hùng chưa dứt ở ai giờ

Hai tướng chung lòng báo nghĩa vua. Sắt đá một lòng vì việc nước

Trung thần tiếng đẹp mãi nghìn thu.

Lại nói, Vua giao phó cho vị tướng giỏi Triệu Quang Phục giữ nước, điều binh đi đánh quân Lương xong, Vua bèn lánh vào động Khuất Lão.

Một hôm, vào ngày mùng 2 tháng 5 âm lịch, Vua nằm ở chính cung, xung quanh có các viên nội thần đứng hầu. Bỗng nhiên, thiu thiu ngủ, Vua mơ thấy vừng


mặt trời, lại có một đám mây đen hình như con chó nhỏ chui vào mặt trời, rồi cùng rơi xuống phía chỗ Vua nằm. Biến thành một người, thân cao 1 trượng, y phục chỉnh tề, đứng trước nhà Vua, vừa hát vừa múa, đọc thơ rằng:

Lý quân hề, Lý quân hề

Khâm thừa Thiên đế chiêu vân thê. Long xa kim nhật hồi thiên thượng Quốc thế truyền lai Phật Tử hề.

Dịch thơ:


Vua ta chừ, Vua ta chừ

Thang mây Thiên đế giục nhà vua. Xe rồng một sớm về thiên giới Thế nước truyền cho Phật Tử giờ.

Vua nghe đọc bài thơ xong, bỗng thấy sấm chớp xé đất, mưa to đổ xuống. Vua giật mình tỉnh dậy, trong người bàng hoàng. Vua đem những chuyện trong mộng kể lại cho mọi người. Ngày hôm ấy, bỗng nhiên đau đầu, rồi mất. Quần thần tổ chức tang lễ, rồi an táng Vua tại động Khuất Lão.

Quần thần lại tôn lập người anh của Vua là Lý Thiên Bảo (tức Đào Lang Vương) lên làm Vua. Lý Thiên Bảo tiến phong Vua làm Lý Nam Đế Quốc vương Thiên tử Đại vương (vào ngày 12 tháng 10 âm lịch), lại truyền cho nhân dân Khuất Lão lập đền, xây lăng mộ Vua để phụng thờ. Dân chúng ở những đất thang mộc như: Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Khuất Lão động, đều cho lập đền thờ. Còn nhân dân dưới sự chăn dắt của Vua thì cho đón nhận sắc chỉ về thờ.

Lại nói, anh của Vua (tức Lý Thiên Bảo) ở ngôi được 8 năm thì mất.

Sau này đến thời Hậu Lý Nam Đế (571-602), tức Lý Phật Tử lên ngôi, được Vua nhiều lần bao phong mỹ tự, cúng tế không dứt. Trải qua bao ngày tháng, quan đảo, dân cầu đều được linh ứng. Xuân thu nhị kỳ triều đình tổ chức quốc tế: Đền thờ Vua càng đẹp đẽ từ đấy.

Lại nói, sau này khi bốn họ: Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, Vua đều có


công hộ quốc, cứu dân, cho nên các đời đế vương đều truy phong mỹ tự. Vạn đời cúng tế Vua, hương hỏa, không bao giờ dứt.

Ngày sinh, ngày hóa của Vua, với sắc chỉ gia phong của các bậc đế vương các đời, cùng tên húy của Vua, mầu sắc y phục của vua nhất thiết cấm sử dụng. Phụng khai ở dưới đây:

- Vua sinh ngày 12 tháng 9 âm lịch. Cỗ chay đủ 3 mâm. Ngoài ra có Ngưu lao: xôi, rượu, trình diễn hát xướng. Bánh có: bánh trôi, bánh chưng.

- Vua mất ngày mùng 2 tháng 5 âm lịch.

Do khi còn sinh thời, Vua cùng với Thiền sư thường trai giới, nên khi hành lễ cấm dùng oản, quả “Đông qua” (tức quả bí), sơn dược, canh thịt lợn để cúng tế. Còn thịt trâu, thịt bò, thịt lợn thì đặt ở phía bên ngoài cùng với rượu và các loại bánh.

- Cha của Vua mất ngày 20 tháng 2 âm lịch. Đồ tế có thịt trâu, thịt bò, các loại bánh và rượu.

- Mẹ của vua mất ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Đồ tế có thịt lợn đen, giữ nguyên mầu sắc, rượu ngọt và xôi.

- Lễ mừng vào những ngày: Ngày 12 tháng 9 âm lịch. Đồ tế dùng xôi, rượu, bánh trôi, ca hát trong 3 ngày; Ngày mùng 2 tháng 12 âm lịch. Đồ tế dùng thịt lợn, rượu, ca hát trong 1 ngày; Ngày mùng 4 tháng giêng. Đồ tế dùng nhiều gà, 5 trâu, mâm xôi, chơi đấu cờ và chơi chọi gà.

- Thiền sư mất ngày 15 tháng 2 âm lịch. Đồ tế dùng cơm chay trắng tinh. Khi hành lễ thì rước bài vị của Vua ở chùa Giang Xá, để đưa tới đạo tràng cúng Phật, trong 3 ngày.

- Húy bốn chữ sau: Bí - Toản - Ngọc - Oanh, nhất thiết cấm không được đọc đến.

- Cấm mặc quần áo mầu vàng và mầu tía.

Ngày mùng 10 tháng Giêng năm Hồng Phúc nguyên niên(1572), Hàn Lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn. (Bản gốc của bản Ngọc phả này được lưu giữ trên đền Hùng Vương)


2.1.2. Thần phả đình, đền Cổ Trai (xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà, Thái Bình (Theo cuốn “Cổ Trai xưa và nay” của cụ Vũ Văn Quỳ, tài liệu nội bộ)

Vào thế kỷ thứ V ở phía Nam Chu Diên - nước Âu Lạc có dải đất nguyên sinh bên bờ sông Bộ (tức sông Tiểu Hoàng, sông Trà Lý). Dân trong vùng nay còn gọi là sông Giai (Cổ Trai), xã Hồng Minh (Hưng Hà). Gai trúc mọc thành rừng xanh trên các gò đống, mà dân Chu Diên quen gọi là “mả”-“Mả Gai - Bờ Trúc” là tên khai sinh của làng Giai (Cổ Trai). Hiện nay làng Cổ Trai còn nhiều gò đống có tên là chữ “mả” như “mả Gai, mả Tư, mả Ngộ, mả Diều, mả Nẻ, mả Nhồi, mả Thú, mả Ông, mả Hòn, mả Sài…”

Tục truyền rằng nơi đây gió lùa sóng vỗ, thông thủy, thuận tiện cho việc giao lưu, với các vùng lân cận, song không yên ả, có nhiều hiểm họa do muông thú, rắn, rết, chồn, cáo gây ra, nhưng sợ nhất là Long Mạch (rồng) khi lúc chiều tà thường hiện ra quấy phá dữ dội, khiến dân trong vùng ít ai dám đặt chân tới.

Trung tuần tháng giêng, mùa xuân năm 455 giữa thế kỷ V, giặc Lương xâm chiếm Âu Lạc. Để dễ bề cai trị, chúng thực hiện âm mưu đồng hóa biến Âu Lạc thành một tỉnh của Trung Quốc, “Giao Châu” là cái tên mà nhà Lương áp đặt cho nước ta thời ấy. Bọn thú lệnh rất tàn bạo, hà khắc, bắt dân ta lên rừng, xuống biển tìm ngà voi, ngọc trai nộp cho chúng. Khiến nhiều người chết vì cá mập, thuồng luồng và muông thú. Ở Trung Quốc, nhà Lương cũng làm mất lòng dân. Vì không chịu nổi cảnh hà khắc tàn bạo, dòng họ Lý người Bắc gặp loạn, đã dời quê hương xuống phía Nam nước Âu Lạc, lập ấp. Đến cửa sông Bộ (cửa sông Phú Nha, xã Hồng Minh nay, xưa còn có tên là Phạm Lỗ và A Lỗ), đoàn thuyền họ Lý rẽ vào miền đất “Mả Gai - Bờ Trúc” thì trời vừa tối, màn đêm buông xuống dày đặc, trùm kín khu rừng huyền ảo linh thiêng. Nhân lúc mọi người thấm mệt, hào trưởng họ Lý (con cụ Tấn, ông nội Lý Bí) cho dừng thuyền nghỉ chân chốc lát bên gò Trúc, bỗng phía hồ gần đó (hồ Mả Tư bên khu di tích đình làng Giai ngày nay), giông tố nổi lên đùng đùng, gió giật sấm dồn, chớp lòe trong những đám mây đen như trời sắp sập, mọi người hoảng sợ, sụp ngồi chắp tay vái trời đất. Chưa kịp hoàn hồn, thì bất thần giữa hồ Mả Tư một luồng khói trắng xoáy ốc vụt lên cao vài trượng, đất trời mở ra,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022