phẩm đến thị trường thấp nhất; (2) là sự song hành huy động và sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ làm giảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng; (3) dựa trên hiệu quả quy mô [31]
Theo tác giả Lê Anh Vũ (2016), các nguyên tắc liên kết vùng gồm: (1) đảm bảo hiệu quả toàn cục trên cơ sở tận dụng, phát huy lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối; thực hiện phân công chuyên môn hóa; (2) gắn với các chủ thể trong thị trường và trong xã hội và phải đảm bảo bình đẳng trong hoạt động của các chủ thể tham gia; (3) đảm bảo thực hiện hợp tác, hài hòa trong các hoạt động phát triển [74].
Theo tác giả Trần Hữu Sơn (2016), nguyên tắc liên kết vùng, tiểu vùng du lịch:
(1) tôn trọng nguyên tắc toàn vẹn; (2) liên kết du lịch trong khu vực là một quá trình năng động với các đặc điểm di chuyển, phối hợp, hội nhập và định kỳ, vì vậy cần tuân thủ các nguyên tắc phát triển tuần tự và có trật tự; (3) nguyên tắc lợi ích, kết hợp lợi ích kinh tế và xã hội, lợi ích sinh thái [57].
Dựa trên các lý thuyết phát triển vùng kinh tế vừa trình bày trên đây, các tác giả xin đề xuất thêm một số nguyên tắc cụ thể như sau:
* Nguyên tắc 1: (Dựa trên Lý thuyết cực tăng trưởng) Hình thành cực phát triển, các dòng hướng tâm của các nguồn lực sản xuất tới cực, và dòng ly tâm của các dòng tiền, thông tin, tiến bộ khoa học và công nghệ… từ cực sang các vùng xung quanh.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng bản đồ lợi thế/tiềm năng của vùng, tiểu vùng và đề xuất các phương án phối hợp giữa các địa điểm. Từ đó xác định các cực phát triển du lịch trọng tâm, với xung quanh là các cực liên quan (các cực hướng tâm cung cấp nguồn lực cho phát triển du lịch tại cực phát triển và các cực ly tâm các lợi ích thu được từ cực phát triển để đầu tư cho các vùng lân cận).
Ưu điểm của nguyên tắc này khắc phục được hạn chế 1. do tạo ra sự phát triển đồng đều, phát huy được điểm mạnh 1 và cơ hội 1, 2 và 3. Đây cũng là đặc thù của du lịch Việt Nam hiện nay, khi mỗi địa phương có một đặc thù du lịch khác nhau, sự gượng ép gắn kết giữa các địa phương được coi là liên kết vùng trong phát triển du lịch hoặc trường hợp khác là cực phát triển có nhưng không hình thành được cực ly tâm và cực hướng tâm cho cực phát triển này, dẫn đến sự phát triển du lịch đơn lẻ, du khách không đến nhiều lần.
* Nguyên tắc 2: (Dựa trên Lý thuyết vùng trung tâm) Hình thành những vị trí trung tâm cung cấp dịch vụ và hàng hóa cho các vùng xung quanh.
Một thực tế là khi đến Việt Nam, du khách rất yêu mến con người, cảnh vật, thực phẩm, văn hóa…nước ta, nhưng chi tiêu cho du lịch lại không nhiều. Do các sản phẩm du lịch nghèo nàn, thậm chí nhiều sản phẩm nhập từ Trung Quốc hoặc sản xuất đơn lẻ nên không thể đem lại giá trị bền vững cho phát triển du lịch dựa trên liên kết vùng và tiểu vùng. Thực tế thứ hai là khách du lịch sau khi quay lại thấy cảnh quan có thể bị ô nhiễm hơn, hàng hóa du lịch không thay đổi, chưa kể đến những biến đổi hành vi trong hoạt động mua bán làm tổn hại uy tín cho thương hiệu du lịch vùng.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Một Số Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Liên Kết Và Liên Kết Phát Triển Vùng
- Liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ - 4
- Du Lịch, Liên Kết, Liên Kết Phát Triển Du Lịch – Một Số Khái Niệm Và Cách Tiếp
- Liên Kết Đào Tạo Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Kinh Nghiệm Của Một Số Địa Phương Trong Nước
- Tiềm Năng Và Lợi Thế Của Du Lịch Vùng Bắc Trung Bộ
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
Bởi vậy, nguyên tắc này đề cập tới giải pháp hình thành những vị trí trung tâm cung cấp dịch vụ và hàng hóa cho cực phát triển. Tác động ngoại biên của nguyên tắc này là: một khu vực có nhiều trung tâm sản xuất trùng sản phẩm hàng hóa thì dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh. Từ đó, nguyên tắc này đòi hỏi:
1- Xác định sản phẩm truyền thống đặc thù DUY NHẤT (nhưng phải gắn với hoạt động sở hữu trí tuệ như đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý để sản
phẩm không “bị đánh cắp”). Trường hợp Tỏi Lý Sơn, Quảng Ngãi là một ví dụ điển hình. Nhiều người dân mang tỏi từ nơi khác về bán, hoặc trồng tỏi nơi khác rồi lấy bao bì mang tên Tỏi Lý Sơn, dẫn đến hậu quả là làm mất uy tín và những giá trị vô hình về sản phẩm phục vụ du lịch tại Đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
2- Quy hoạch phát triển vùng sản xuất và cấp giấy chứng nhận kinh doanh cho các cơ sở sản xuất muốn tham gia cung cấp dịch vụ cho cực phát triển.
3- Xây dựng bộ tiêu chí cho du lịch liên kết vùng, tiểu vùng (tiêu chí môi trường, tiêu chí an toàn, tiêu chí sinh thái....).
* Nguyên tắc 3: (Dựa trên Lý thuyết Desakota): Định hướng xen vùng
- Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với đặc thù của Việt Nam do tính xen vùng vốn có. Nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế tại các địa phương hiện nay đang gặp phải những tác động ngoại biên từ ngành/lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Đó là khi du lịch đem lại giá trị kinh tế cao, toàn bộ lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang làm dịch vụ du lịch hoặc chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất dự án hay xây dựng hạ tầng phát triển du lịch.
Nguyên tắc này giải quyết được điểm yếu 3 và thách thức 3 và thực hiện các quy trình như sau:
+ Dự báo xu hướng chuyển đổi lao động sang phát triển du lịch để đào tạo tay nghề, kiến thức một cách bài bản và chuyên nghiệp.
+ Xây dựng định hướng cực phát triển để tiến hành di rời hoặc định hướng các khu vực xen vùng cho các ngành khác (nông nghiệp, công nghiệp). Việc xen vùng này có thể mang lại những tác động ngoại biên dương tính như việc phát triển mô hình du lịch sinh thái có thể gắn với sản xuất nông nghiệp và hoa màu. Có thể lấy kinh nghiệm trong hoạt động này từ vùng Banaeu, Philllipines. Ở đây, du khách rất thích thú tham quan và trải nghiệm với các ruộng bậc thang và cách làm sản phẩm từ cây lúa.
Các nguyên tắc này tiệm cận với cách tiếp cận vùng, tiếp cận chùm đổi mới, chùm vùng hiện đang được một số quốc gia lựa chọn trong thực thi chính sách phát triển du lịch vùng, tiểu vùng gắn với khoa học và công nghệ.
2.1.3.3. Phạm vi của liên kết vùng du lịch
Liên kết vùng du lịch là thể hiện rõ nét của hoạt động hợp tác du lịch nói chung trong phạm vi một vùng du lịch. Mục đích hợp tác, liên kết du lịch của một vùng, nói cho cùng, là tạo ra sự phát triển du lịch tại vùng đó với biểu hiện cụ thể là việc tăng lượng khách, tăng doanh thu, tăng lợi thế cạnh tranh và hình ảnh du lịch của vùng. Liên kết vùng du lịch cho thấy hoạt động thúc đẩy hợp tác trong phát triển du lịch một cách chủ động, đặc biệt với sự tham gia của các cơ quan quản lý.
Tuy liên kết vùng du lịch có xu hướng tập trung nhiều hơn vào việc liên kết ở phạm vi không gian và hành chính, trực tiếp là giữa các địa phương cấp tỉnh trong một vùng, phát triển liên kết vùng theo nghĩa này không tách khỏi những yêu cầu trong việc phát triển hợp tác, liên kết trong phạm vi nội bộ địa phương cũng như giữa các doanh nghiệp tại các địa phương khác nhau trong vùng.
Với nhiều đối tượng tham gia trong phát triển du lịch, hợp tác liên kết trong phát triển du lịch được thể hiện ở nhiều phạm vi khác nhau với nhiều đối tượng khác nhau. Hợp tác, liên kết vùng du lịch có thể chia thành 3 phạm vi là hợp tác nội bộ địa phương, liên kết vùng cấp kinh doanh và liên kết vùng cấp quản lý (hành chính).
Các sản phẩm du lịch
KHÁCH DU LỊCH
Địa phương1
Địa phương 2
Địa phương ...
Hợp tác nội bộ địa phương
Hợp tác nội bộ địa phương
Liên kết cấp quản lý
Liên kết cấp kinh doanh
Hợp tác nội bộ địa phương
Ghi chú Cơ quan quản lý
Tổ chức, doanh nghiệp du lịch và các bên liên quan
Nguồn: Phát triển của tác giả
Hình 2.2: Các phạm vi của hợp tác, liên kết vùng trong phát triển du lịch
Hợp tác nội bộ địa phương là phạm vi mang tính “đơn vị” trong liên kết vùng du lịch bởi không có hợp tác nội bộ địa phương, hợp tác liên kết vùng không thể đạt mục tiêu lan tỏa, đem lại những sản phẩm, trải nghiệm tích hợp cuối cùng cho khách du lịch. Tại mỗi địa phương, khách du lịch tiêu dùng những sản phẩm cụ thể riêng biệt. Những sản phẩm này được tạo thành bởi các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch tại địa phương cũng như bởi sự hợp tác giữa các doanh nghiệp này.
Liên kết vùng cấp kinh doanh thể hiện sự hợp tác giữa các doanh nghiệp khác nhau nằm ở các địa phương khác nhau trong vùng. Nếu coi chuyến đi của khách du lịch tới một vùng du lịch là một sản phẩm thì yêu cầu hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp khác nhau trong vùng, thậm chí là với cả doanh nghiệp ở ngoài vùng là điều kiện quan trọng để tạo nên một sản phẩm du lịch của vùng có chất lượng tốt.
Liên kết vùng cấp chính sách cho thấy mối quan hệ hợp tác ở cấp quản lý giữa các địa phương trong vùng. Phát triển du lịch luôn gắn với vai trò các tổ chức, cơ quan quản lý điểm đến du lịch (UNWTO 2008) [194]. Nếu coi một vùng là một điểm đến du lịch với quy mô lớn hơn điểm đến du lịch cấp địa phương (cấp tỉnh) thì việc liên kết
vùng cấp chính sách đáp ứng yêu cầu quản lý điểm đến du lịch cấp vùng
Phát triển du lịch của một vùng cần quan tâm tới cả ba phạm vi hợp tác, liên kết này. Nếu như hợp tác nội bộ địa phương là vấn đề của bên tham gia trong phạm vi hành chính của một địa phương thì hợp tác cấp vùng (kể cả doanh nghiệp và hành chính) đề cập tới mối quan hệ vượt qua biên giới hành chính của các địa phương, đòi hỏi những phối hợp, điều hòa giữa các chính sách. Tương tự như vậy, nếu như hợp tác giữa các doanh nghiệp (được hiểu theo nghĩa là những người cung cấp sản phẩm du lịch cuối cùng) nhằm tạo ra sản phẩm tốt cho khách du lịch được xem là mục tiêu cuối cùng của hợp tác, liên kết du lịch vùng thì hợp tác ở góc độ chính sách, thể chế là điều kiện, là cơ sở mở đường cho hợp tác giữa các doanh nghiệp.
2.1.3.4. Các hoạt động liên kết vùng du lịch
Mục tiêu của liên kết vùng du lịch là phát triển và quản lý du lịch điểm đến du lịch cấp vùng một cách có hiệu quả. Với góc nhìn này, các hoạt động liên kết vùng bao gồm các hoạt động từ việc xây dựng chiến lược phát triển, hoạt động marketing, quản lý nâng cao trải nghiệm của khách du lịch (UNWTO 2008) [194].
Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch được xác định là công việc đầu tiên của người quản lý điểm đến du lịch. Là một ngành kinh tế tổng hợp, phát triển du lịch liên quan và phụ thuộc vào nhiều ngành, nhiều bên, nhiều đối tượng tham gia. Du lịch tại một điểm đến cũng luôn phải cạnh tranh với các điểm du lịch khác. Cùng với đó, phát triển bền vững được đặt ra với các điểm du lịch trong quá trình phát triển. Tất cả những điều này đặt ra yêu cầu cho phát triển du lịch một cách có chiến lược, được triển khai trong thời gian dài hạn.
Do du lịch liên quan tới nhiều bên, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch cần sự tham gia của các bên, từ việc xác định rõ những nguồn lực, vị thế của điểm đến du lịch của mình cho tới việc xác định các mục tiêu, tổ chức thực hiện chiến lược. Trong phạm vi một vùng du lịch, việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của cả vùng luôn đặt trong mối quan hệ với chiến lược phát triển du lịch của mỗi địa phương.
Marketing điểm đến du lịch là hoạt động cụ thể và thấy rõ ràng nhất trong quản lý điểm đến. Marketing điểm đến cho phép điểm đến du lịch định hướng rõ ràng đối tượng khách du lịch mà mình hướng tới, từ đó có định hướng và tổ chức phát triển sản phẩm, xây dựng hình ảnh điểm đến, quảng bá và xúc tiến sản phẩm một cách có hiệu quả tới đối tượng khách hàng mục tiêu của mình.
Do đặc điểm về tài nguyên và sản phẩm du lịch, trong nhiều trường hợp, hình ảnh của một sản phẩm du lịch gắn liền với một vùng hơn là một địa phương, một tỉnh nhất định. Các hoạt động marketing có hiệu quả hơn khi được triển khai cho một vùng du lịch.
Quản lý nâng cao trải nghiệm của khách du lịch liên quan tới các hoạt động quản lý du lịch tại một địa phương nhằm đảm cho cho khách du lịch có những trải nghiệm thú vị, có chất lượng trong quá trình đi du lịch. Quản lý trải nghiệm liên quan tới các hoạt động quản lý ngành du lịch và các ngành có liên quan. Đối với ngành du lịch, nâng cao trải nghiệm của khách du lịch liên quan tới những hoạt động tạo ra những nguồn lực chung trong ngành (như đào tạo lao động ngành du lịch) và tạo ra những chuẩn mực về chất lượng áp dụng trong ngành du lịch tại địa phương. Do tính chất liên ngành của du lịch, việc trải nghiệm du lịch của khách còn vượt qua phạm vi ngành du lịch, liên quan tới các ngành liên quan như giao thông, y tế, công an … Điều này đòi
hỏi sự điều phối của người quản lý du lịch. Tại phạm vi một vùng, quản lý trải nghiệm nhằm đảm bảo sự tương đồng về chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm, giảm sự lặp lại của sản phẩm tạo ra sự nhàm chán của khách du lịch cũng như tạo ra những gắn kết về các điều kiện cơ sở hạ tầng chung trong vùng đáp ứng yêu cầu của khách.
2.1.4. Điều kiện liên kết vùng trong phát triển du lịch
2.1.4.1. Cơ sở tạo lập liên kết vùng du lịch
Những cơ sở quan trọng tạo lập liên kết nội vùng và liên kết vùng trong du lịch, bao gồm:
(i) Các lợi thế so sánh vùng có vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống phân công lao động và chuyên môn hóa, và do đó hình thành mối liên kết nội vùng và liên vùng.
(ii) Lợi thế quy mô nhờ chuyên môn hóa. Lợi thế nhờ quy mô tác động lan tỏa đến các vùng khác nhờ sử dụng các nguyên liệu đầu vào và kiến thức, lao động có kỹ năng. Trong lĩnh vực du lịch, với lợi thế về tài nguyên du lịch và sự thu hút của trung tâm du lịch lớn sẽ hình thành nên các cực trung tâm phát triển, có tác dụng lan tỏa cao, tạo thành chuỗi liên kết phát triển du lịch.
(iii) Sự đồng thuận về thể chế và các nhóm xã hội chia sẻ lợi ích chung, trong đó có lợi ích phát triển riêng của địa phương. Sự đồng thuận giữa các cấp quản lý vĩ mô và các chủ thể kinh doanh du lịch như doanh nghiệp, hộ gia đình, đồng thuận giữa nội vùng và liên vùng, quốc tế.
(iv) Sự đồng bộ về cơ chế chính sách, khung thể chế và quản trị vùng trên các khía cạnh: đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia liên kết, tạo khung khổ thể chế cho việc xây dựng và thực hiện các cam kết và cung cấp đầy đủ thông tin cho các chủ thể. Tạo ra sự công khai, minh bạch trong các chính sách; tạo điều kiện cho sự tham gia của dân cư vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách du lịch.
(v) Hệ thống hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại với các loại hình hạ tầng khác nhau. Hạ tầng trong nhiều trường hợp quyết định sự thành công hay thất bại của các mối quan hệ liên kết tiểu vùng, liên kết vùng và liên kết du lịch.
2.1.4.2. Các điều kiện thực hiện liên kết vùng, tiểu vùng trong phát triển du lịch
Một là, điều kiện về nhận thức và hợp tác chặt chẽ giữa các chủ thể du lịch. Liên kết vùng du lịch hướng tới sự phát triển bền vững là một quá trình lâu dài và phức tạp, nên cần nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của liên kết và xây dựng được một kế hoạch cụ thể bồi dưỡng, đào tạo cán bộ du lịch có đủ trình độ, năng lực xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chiến lược, chương trình, các chính sách liên kết phát triển vùng du lịch. Đòng thời, liên kết là một hoạt động phức tạp với sự tham gia của nhiều cấp, nhiều thành phần, có thể ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt của một số thành viên dễ dẫn đến tình trạng “lách luật”, “phá rào” trong liên kết. Vì vậy, cần xây dựng một cơ chế pháp lý rõ ràng và mạnh mẽ cho sự phát triển vùng du lịch.
Liên kết vùng du lịch là nội hàm quyết định hình thành vùng du lịch, không có liên kết vùng du lịch thì không có vùng du lịch thực sự. Nhà nước có trách nhiệm hình thành những cơ chế bắt buộc, tự nguyện, khuyến khích liên kết giữa chủ thể nhà nước, thị trường, cộng đồng. Liên kết vùng của chủ thể nhà nước để hình thành không gian chính sách, dịch vụ công, phát triển hạ tầng; liên kết hình thành thị trường vùng, kết nối hiệu quả với thị trường quốc gia và quốc tế, hình thành những dịch vụ, ngành hàng hiệu quả của vùng.
Hai là, điều kiện về chính sách và thể chế quản trị vùng. Để liên kết vùng du lịch thực sự có hiệu quả và thực chất, Nhà nước cần có chính sách rõ ràng về liên kết vùng nói chung và liên kết vùng trong phát triển du lịch nói riêng, tạo điều kiện cho không gian vùng du lịch được kết nối và mở rộng, nhiều cụm ngành kinh tế và sản phẩm thế mạnh mà các địa phương được liên kết với nhau, phát huy được lợi thế so sánh mà từng địa phương liên kết; chuỗi giá trị du lịch được xác lập làm tăng hiệu quả đầu tư do tận dụng được “lợi thế dùng chung” trên cơ sở phân công trong nội vùng và liên vùng; từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch cạnh tranh có hiệu quả. Nếu không có chính sách phù hợp thì vai trò của du lịch sẽ không được phát huy, không gian liên kết vùng du lịch bị chia cắt và thu hẹp, các trung tâm du lịch và sản phẩm du lịch trong vùng không được liên kết với nhau, lợi thế so sánh về du lịch của từng tỉnh không được phát huy, dẫn đến chuỗi giá trị du lịch bị cắt khúc; đầu tư trùng lặp, giá trị gia tăng thấp, du lịch hoạt động không hiệu quả trên phạm vi vùng, chi phí tăng cao, giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Để đảm bảo tính nhất quán của chính sách, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương trong điều phối chính sách để các chủ trương, chính sách chung của Trung ương thực sự gắn với các điều kiện cụ thể của địa phương. Các chính sách của Nhà nước đối với các vùng cần phải được thực hiện nhất quán ở tất cả các địa phương và cần được giám sát thực hiện sát sao, tránh việc các địa phương tự tiện “phá rào” ảnh hưởng đến lợi ích toàn cục.
Thể chế phát triển vùng du lịch có vai trò hết sức quan trọng trong quyết định, điều phối những nội dung liên kết phát triển du lịch vùng. Không có thể chế phát triển vùng đủ mạnh thì không có sự phát triển vùng du lịch có hiệu quả. Liên kết vùng du lịch diễn ra ở nhiều cấp, nhiều dạng với nhiều hình thức liên kết đa dạng và linh hoạt. Vì vậy, thể chế quản trị vùng cũng cần đa dạng, có nhũng thể chế nhà nước, phi nhà nước, cộng đồng, thị trường.
Ba là, điều kiện về giao thông và cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Hạ tầng giao thông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bảo đảm sự thông suốt toàn bộ nền kinh tế, cũng như vùng và địa phương. Liên kết vùng du lịch sẽ không thể phát triển được nếu không có cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại và có tính kết nối cao. Hạ tầng giao thông và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí,…) tốt sẽ giúp thúc đẩy liên kết và hợp tác chặt chẽ du lịch trong vùng, kết nối thị trường vùng và liên vùng vói thị trường quốc gia và quốc tế, khai thác và hiện thực hóa các tiềm năng du lịch của địa phương; nâng cao hiệu quả đầu tư, thu hút du khách. Ngược lại, hạ tầng giao thông và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch kém phát triển sẽ là một trong những nút thắt lớn, tạo ra lực cản mạnh nhất trong liên kết vùng, tiểu vùng du lịch.
Bốn là, điều kiện về phát triển kinh tế - xã hội. Các vùng miền với sự đa dạng về trình độ phát triển. Vì vậy không có mô hình đồng nhất nào cho liên kết phát triển du lịch vùng. Với các vùng năng động, có lợi thế so sánh về du lịch, cần hình thành các cực tăng trưởng du lịch đủ mạnh để có sức lan tỏa, kết nối với quốc tế. Ngay trong một vùng kinh tế - xã hội, cũng nên quy hoạch phát triển mạng lưới các cực tăng trưởng nội vùng, không nên có quan điểm phát triển dàn đều cùng tiến. Kết hợp phát triển du lịch vùng, tiểu vùng theo các cực tăng trưởng, dựa trên sự hình tành, sự tập trung phát triển cơ sở hạ tầng và các điều kiện đảm bảo thu hút khách du lịch, tạo nên mạng lưới cực tăng trưởng có quan hệ hữu cơ với phát triển vùng theo cơ cấu lãnh thổ, đảm bảo
sự hài hòa tránh sự phát triển phân cực thái quá dẫn đến mất ổn định và kèm bền vững về môi trường.
Năm là, điều kiện về sự thông suốt trong quản lý, điều hành thống nhất từ cấp quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương. Vùng du lịch không là phép cộng đơn thuần của các đơn vị hành chính. Do vậy, để tăng cường phối hợp hoạt động các địa phương trong vùng, cần có cơ quan quản trị cấp vùng với tư cách là chủ thể triển khai những quyết định, chính sách phát triển vùng, tránh được những cục bộ ngành, địa phương. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng quy hoạch không gian lãnh thổ, làm rõ chức năng kinh tế - xã hội của từng vùng làm nền tảng định hình quy hoạch không gian lãnh thổ vùng, theo nguyên tắc quy hoạch ở cấp cao hơn là cơ sở quy hoạch cấp dưới. Những vấn đề có tính quốc gia thì quy hoạch quốc gia, vấn đề có tính vùng thì nằm ở quy hoạch vùng, làm rõ giới hạn từng quy hoạch.
Sáu là, điều kiện về xác định không gian địa lý kinh tế phù hợp. Sử dụng có hiệu quả lãnh thổ của một vùng du lịch cụ thể thông qua điều kiện tài nguyên du lịch, hệ thống giao thông liên lạc và các điểm dân cư trên cơ sở tính toán đến các nhân tố và điều kiện tự nhiên, kinh tế, kiến trúc, xây dựng, địa chất. Việc xác định ranh giói địa kinh tế của những vùng du lịch trọng điểm, khu, điểm du lịch là hết sức quan trọng, không nên xác định địa bàn quá rộng sẽ làm giảm hiệu quả du lịch, cũng không nên để các vấn đề xã hội kìm hãm các động lực liên kết du lịch.
Bảy là, điều kiện về vốn đầu tư thông qua các quỹ phát triển du lịch vùng, đầu tư có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Để có nguồn vốn hỗ trợ phát triển vùng du lịch, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để xây dựng các công trình hạ tầng lớn, cần thành lập quỹ phát triển du lịch vùng với kinh phí được hình thành từ nhiều nguồn, bao gồm ngân sách nhà nước, viện trợ quốc tế, tài trợ của các tổ chức, cá nhân nhằm tài trợ, cho vay, để tạo ra sự chủ động về tài chính cho sự phát triển. Trên cơ sở đó, dùng cơ chế chính sách, công nghệ để thúc đẩy thị trường du lịch, đầu tư phù hợp với quy hoạch vùng, coi đó là một bộ phận cấu thành của chính sách kinh tế, là hệ thống các biện pháp xác định quy mô, cơ cấu và phương hướng đầu tư, kéo quá trình phát triển vùng du lịch theo hướng hiệu quả, vận hành theo cơ chế thị trường [38].
2.1.4.3. Các tiêu chí đánh giá liên kết phát triển du lịch
Một là, mức độ tham gia liên kết vùng: quyết định thành lập ban điều phối liên kết của cơ quan có thẩm quyền; tỷ lệ các địa phương trong vùng cam kết bằng văn bản tham gia liên kết; tỷ lệ các địa phương tham gia liên kết của cán bộ tham gia điều phối.
Hai là, chương trình hoặc kế hoạch liên kết vùng: tỷ lệ các nội dung liên kết so với những nội dung có thể liên kết du lịch vùng có được sự thống nhất giữa các địa phương cam kết tham gia liên kết; tỷ lệ các nội dung liên kết có được chương trình hoặc kế hoạch liên kết cụ thể được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
Ba là, thực tế triển khai chương trình/kế hoạch liên kết: tỷ lệ các nội dung liên kết so với những nội dung có thể liên kết du lịch vùng được triển khai trong thực tế tại thời điểm khảo sát; tỷ lệ các nội dung liên kết hoàn thành trong thực tế tại thời điểm khảo sát.
Bốn là, sản phẩm du lịch vùng: tỷ lệ những sản phẩm du lịch mang tính chất vùng trên tổng số những sản phẩm du lịch chính của các địa phương trong vùng được đề xuất xây dựng đến thời điểm khảo sát; tỷ lệ những sản phẩm du lịch mang tính vùng đã hình thành và được đưa vào khai thác.
Năm là, xúc tiến quảng bá thương hiệu du lịch vùng: thương hiệu du lịch chung của vùng hoặc của cụm một số địa phương trong vùng được xây dựng; tỷ lệ các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch chung toàn vùng trên tổng số hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch riêng lẻ của các địa phương trong vùng được thực hiện đến thời điểm khảo sát.
Sáu là, nhận thức và hiểu biết về liên kết du lịch vùng: tỷ lệ các cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng đưa lồng ghép nội dung về liên kết du lịch vào chương trình đào tạo; tỷ lệ các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao nhận thức và trình độ liên kết du lịch vùng so với tổng số các lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh qua các năm.
2.2. Nội dung về liên kết phát triển du lịch
Liên kết phát triển du lịch bao gồm nhiều nội dung nhưng luận án tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
2.2.1. Liên kết tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến xây dựng thương hiệu du
lịch
Kết nối các sự kiện, lễ hội riêng của từng địa phương trong vùng để tạo ra chuỗi
sự kiện du lịch mang tính chất vùng nhằm thu hút khách du lịch, đặc biệt là các thị trường trọng điểm đem lại hiệu quả kinh tế cao; tổ chức các diễn đàn xúc tiến đầu tư du lịch toàn vùng nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ các tập đoàn kinh doanh du lịch xuyên quốc gia; xúc tiến thành lập cổng thông tin điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch và các lĩnh vực có liên quan, xác lập thương hiệu, hình thành tờ báo chuyên ngành du lịch sử dụng chung cho toàn vùng; nghiên cứu nhằm xây dựng và định vị hình ảnh du lịch toàn vùng trên thị trường và các nhà đầu tư.
Phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, doanh nghiệp du lịch, hiệp hội du lịch vùng để quảng bá, cung cấp thông tin cho du khách tại các điểm đến; hỗ trợ nhau trong hoạt động xúc tiến các sản phẩm du lịch đặc thù của vùng và của từng địa phương trong vùng; hoàn thiện hệ thống xúc tiến đầu tư du lịch vùng; tạo ra sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các doanh nghiệp du lịch, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích của mỗi địa phương, vừa phát huy sức mạnh tổng hợp du lịch chung của toàn vùng.
Xây dựng và cập nhật thường xuyên cơ sở dữ liệu vùng về các chỉ tiêu phát triển du lịch cơ bản gồm: số lượng khách du lịch (quốc tế và nội địa); chi tiêu và ngày lưu trú trung bình, số lượng lao động trực tiếp và gián tiếp; tổng vốn đầu tư phát triển du lịch (quy mô, cơ cấu theo lĩnh vực và nguồn huy động), so sánh với các vùng du lịch khác và cả nước. Trao đổi thông tin kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong vùng về tình hình phát triển, các khó khăn vướng mắc, các yêu cầu hỗ trợ, hợp tác; nghiên cứu mô hình phát triển du lịch và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm giữa các địa phương, doanh nghiệp du lịch, hiệp hội du lịch trong vùng về các hoạt động chuyên môn, hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, các hội nghị, hội thảo phát triển du lịch nhằm phát huy lợi thế về du lịch của mỗi địa phương, của từng tiểu vùng và toàn vùng một cách hiệu quả nhất.
2.2.2. Liên kết xây dựng sản phẩm du lịch, chương trình du lịch (tour du lịch) chung của toàn vùng
Các hoạt động liên kết nhằm tạo ra các sản phẩm để du khách có thể tham quan, tìm hiểu nhiều lĩnh vực, nhiều điểm du lịch, tham gia nhiều hoạt động khác nhau trong