Thứ hai, các địa phương trong Vùng cần nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư ngoài NSNN để phát triển du lịch Vùng. Với thông điệp là tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và thân thiện với nhà đầu tư phát triển du lịch, các tỉnh Bắc Trung Bộ cần tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa địa phương và nhà đầu tư.
Các chính sách “giá” mà chính quyền địa phương có thể thực hiện nhằm hỗ trợ cho nhà đầu tư vào Vùng, bao gồm: Ban hành chính sách về hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật như đường giao thông, điện… có tính chất liên vùng; Thống nhất ưu đãi về chính sách thuế, phí, lãi suất cho các dự án du lịch trong khu vực; Có chương trình hợp tác về đào tạo, chia sẻ, nguồn nhân lực du lịch…
Thứ ba, các địa phương trong Vùng cần tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch. Để thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch có hiệu quả thì bên cạnh việc cải thiện môi trường đầu tư, cần nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư. Bên cạnh việc chủ động triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư cho từng địa phương thì cần tăng cường xúc tiến đầu tư liên tỉnh, xúc tiến đầu tư cho cả khu vực, nhằm tăng cường sức mạnh thu hút đầu tư.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là ưu tiên hàng đầu đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư du lịch trong Vùng. Để cải thiện môi trường đầu tư, nhằm thu hút các nhà đầu tư phát triển du lịch trong thời gian tới, các địa phương cần triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động du lịch của địa phương, vùng. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động tối đa các nguồn lực, mở rộng quy mô, đa dạng hóa ngành, nghề và hình thức đào tạo; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ quản trị viên tại các DN du lịch, hướng dẫn viên du lịch, nhân viên lễ tân, buồng, bàn... đáp ứng nhu cầu lao động cho các DN du lịch.
Giải pháp cho từng kênh huy động vốn
Một là, đối với nguồn vốn NSNN. Hàng năm, các địa phương đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính dựa trên kế hoạch ngân sách của cả nước có kế hoạch ưu tiên nguồn vốn NSNN cho đầu tư các hạng mục cơ sở hạ tầng trọng điểm phát triển du lịch Vùng.
Đối với nguồn vốn từ ngân sách địa phương cần phân bổ cho phát triển hạ tầng các khu du lịch địa phương và khu du lịch có tiềm năng trên địa bàn. Khi xây dựng kế hoạch về chi NSNN cho phát triển du lịch các địa phương trong khu vực cần có thông tin, trao đổi thống nhất để tăng hiệu quả đầu tư, tránh chồng chéo, kém hiệu quả.
Hai là, đối với nguồn vốn xã hội hóa từ DN, cá nhân đầu tư cho du lịch. Trong thời gian tới, các địa phương trong Vùng cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa trong công tác đầu tư phát triển du lịch; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia góp vốn đầu tư dưới các hình thức khác nhau, đặc biệt có cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn trong dân để đầu tư phát triển du lịch.
Ba là, cần có nhiều giải pháp thức đầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ở những địa phương đã thu hút được các dự án trong thời gian qua như Thừa Thiên – Huế. Đặc biệt, đối với các địa phương chưa thu hút được dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Thanh Hóa, Nghệ An cần có chính sách đột phá để khai thông thế vướng mắc, tồn tại để thu hút vốn đầu tư cho phát triển du lịch của Vùng. Bên cạnh thu hút FDI, các địa phương trong vùng cũng cần quan tâm đến các nguồn vốn nước ngoài khác như ODA. Cần ưu tiên các nguồn vốn vay, nguồn vốn ODA của các nước thông qua các hiệp định.
Thông qua các kênh đối ngoại, ngoại giao khác nhau, các hiệp định thương mại để thu hút nguồn vốn ODA vào đầu tư cơ sở hạ tầng các khu vực trọng điểm, những nơi có yêu cầu nguồn vốn đầu tư lớn mà ngân sách, vốn của các nhà đầu tư trong nước không có khả năng tham gia. Thông qua các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức thương mại quốc tế, bà con Việt Kiều để tìm hiểu năng lực của các nhà đầu tư, tiếp xúc cung cấp thông tin, khuyến khích họ đầu tư...
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Khảo Sát Về Việc Thiếu Cơ Chế Phối Hợp Giữa Các Địa Phương Trong Các Chương Trình Liên Kết Du Lịch Ở Bắc Trung Bộ
- Điểm Bình Quân Đánh Giá Của Người Được Khảo Sát Về Thực Trạng Nội Dung Liên Kết Phát Triển Du Lịch Vùng Bắc Trung Bộ
- Giải Pháp Tăng Cường Liên Kết Phát Triển Du Lịch Tại Các Tỉnh Vùng Bắc Trung Bộ
- Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Các Tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế (2011 - 2018), Báo Cáo Tình Hình Phát Triển Du
- Krugman, P. (1979). Increasing Returns, Monopolistic Competition And International Trade. Journal Of International Economics, 9, Pp.469-479.
- Liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ - 22
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
4.2.4. Phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Bắc Trung Bộ
Theo Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được phê duyệt, định hướng phát triển sản phẩm đặc trưng của khu vực gồm: du lịch về nguồn tìm hiểu bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam; tham quan, nghiên cứu hệ sinh thái núi cao, hang động; nghỉ dưỡng núi; nghỉ cuối tuần; thể thao khám
phá; du lịch biên mậu… Việc phát triển du lịch của vùng được quan tâm phát triển, tuy nhiên yếu tố nguồn nhân lực du lịch của khu vực còn có những bất cập. Cụ thể, về số lượng, theo đánh giá dự báo trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, số lượng lao động trong lĩnh vực du lịch của khu vực Bắc Trung Bộ là 25.183 người. Như vậy, lượng lao động trong vùng Bắc Trung Bộ không nhiều. Mặt khác, theo đánh giá của các cơ quan quản lý du lịch địa phương, nguồn nhân lực du lịch của địa phương hiện nay còn nhiều bất cập.
Về mặt hình thức liên kết, các tỉnh Bắc Trung Bộ có thể thực hiện theo hai hướng sau đây.
Hình thức liên kết nội vùng: ngành du lịch các địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng về văn hóa, thông tin, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong phạm vi địa phương và các địa phương lân cận phối hợp với cá cơ sở đào tạo tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn nghiệp vụ du lịch và kiến thức quản lý nhà nước về du lịch.
Hình thức liên kết ngoại vùng: hình thức này được triển khai tương đối phổ biến. Hoạt động hợp tác và phối hợp với các cơ quan Trung ương như Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch thông qua Tổng cục Du lịch Việt Nam. Ngoài ra, các địa phương còn có thể thu hút các dự án phát triển du lịch cộng đồng, du lịch bền vững, du lịch sinh thái do nhiều tổ chức phi chính phủ, các dự án phát triển nguồn nhân lực, phát triển cộng đồng phối hợp với các cơ sở đào tạo trong vùng tổ chức các lớp đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch. Cụ thể, hiện nay, các tổ chức có mối quan hệ và liên kết hỗ trợ công tác đào tạo phát triển nhân lực du lịch chủ yếu từ trước đến nay gồm: tổ chức SNV của Hà Lan, tổ chức IUCN, dự án EU và dự án ERST hiện nay do Liên minh châu Âu tài trợ. Ngoài ra, một số địa phương trong vùng biên giới có thể tổ chức phối hợp với các tỉnh biên giới của Lào và Thái Lan, Trung Quốc để bồi dưỡng nhân lực du lịch thông qua sự phối hợp với các doanh nghiệp du lịch có thị trường khách tại đây.
Từ đó, để phát triển nguồn nhân lực du lịch cần thực hiện một số chính sách sau:
- Thứ nhất: Đẩy mạṇ h công tác quản lý nhà nước đối với nguồn nhân lực du lịch Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của các tỉnh/thành phố trong vùng cần phối
hợp với các sở, ban ngành có liên quan tiến hành khảo sát, điều tra về nguồn nhân lực du lịch trong vùng để xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch của vùng, làm cơ sở cho việc khai thác, đào tạo và bồi dưỡng nhằ̀m nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Đồng thời, cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách liên quan đến công tác đào tạo nguồn nhân lực như các tiêu chuẩn chức danh quản lý, tiêu chuẩn nghiệp vụ,...để làm cơ sở cho việc đào tạo nguồn nhân lực.
- Thứ hai: Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch
Bên cạnh việc đầu tư phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch của ngành du lịch, các cơ sở đào tạo phải tiến hành công tác khảo sát, thay đổi và cải tiến nội dung chương trình, giáo trình, trang thiết bị đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng viên để nâng cao chất lượng đào tạo. Đồng thời, công tác đào tạo phải gắn kết nhu cầu và yêu cầu của các cơ sở kinh doanh du lịch trong vùng.
- Thứ ba: Xã hội hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch
Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng, đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Có thể khuyến khích bằ̀ng cách tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trong việc liên kết đào tạo với nước ngoài; hoặc có chính sách tài chính ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân có tham gia công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch như: giao đất xây dựng cơ sở đào tạo, miễn tiền sử dụng đất, ưu đãi thuế.
4.2.5. Liên kết phát triển du lịch trong mô hình quản lý điểm đến
Theo các chuyên gia, hoạt động du lịch khá phức tạp, bị phân đoạn từ thời điểm du khách đặt chân đến điểm đến du lịch tới khi họ rời đi. Sự trải nghiệm của du khách phụ thuộc vào môi trường, thái độ của cộng đồng và nhiều dịch vụ khác nhau từ khu vực công và tư nhân. Việc tạo ra giá trị du lịch tốt phụ thuộc nhiều vào việc các tổ chức phối hợp làm việc với nhau như thế nào. Để cạnh tranh có hiệu quả, các điểm đến phải tạo ra cho du khách những trải nghiệm và giá trị tuyệt vời. Do vậy, vấn đề quản lý điểm đến đòi hỏi sự liên kết của các lợi ích khác nhau để cùng làm việc vì một mục tiêu chung nhằm đảm bảo sức sống và sự toàn vẹn cho điểm đến hiện tại và trong tương lai.
Sự có mặt của các cấu trúc quản lý du lịch hiệu quả tại địa phương là rất quan trọng. Nhiều dịch vụ du lịch cốt lõi được cung cấp ở điểm đến địa phương và điểm
đến cũng là nơi các tác động tích cực cũng như tiêu cực của du lịch tới kinh tế, xã hội, môi trường được thể hiện rõ nét nhất, đòi hỏi phải có sự quy hoạch và quản lý tại địa phương một cách hợp lý. Ở nhiều quốc gia, công tác quản trị du lịch điểm đến ngày càng có xu hướng được đặt trên nền tảng hợp tác và quan hệ đối tác công tư hoặc các đối tác nhiều thành phần, trong nhiều trường hợp là thông qua các Tổ chức Quản lý điểm đến (DMO). Tầm quan trọng của việc gắn kết các doanh nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương vào quá trình quy hoạch và phát triển du lịch của khu vực đang được công nhận rộng rãi. Cơ chế hợp tác này sẽ góp phần cải thiện dịch vụ du lịch nói chung ở cấp điểm đến, theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường bằng cách xây dựng tầm nhìn chiến lược cho phát triển du lịch để bao gồm năng lực thực hiện và giám sát kết quả.
Phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ trở thành ngành kinh tế quan trọng là tầm nhìn chiến lược. Cơ hội phát triển các sản phẩm và dịch vụ du lịch được tập trung ở những địa bàn cụ thể có dòng du khách đến và xung quanh một khu vực cụ thể. Với ranh giới địa lý rõ ràng, các bên liên quan phải đối mặt với nhiệm vụ quản lý nhiều hơn để giải quyết những yêu cầu của khách du lịch tự, xử lý những vấn đề chung và nắm bắt những lợi ích lớn hơn. Khi doanh nghiệp phát triển, cơ cấu quản lý điểm đến sẽ được đưa vào. Tại các tỉnh chỉ có các doanh nghiệp du lịch tư nhân nhỏ, quản lý điểm đến sẽ chủ yếu là chức năng của khu vực công. Sự tham gia của các đơn vị điều hành tour là rất quan trọng để đảm bảo định hướng thị trường. Khi du lịch phát triển, trách nhiệm quản lý điểm đến sẽ có sự tham gia ngày càng tăng của khu vực doanh nghiệp. Tuy nhiên, thách thức chủ yếu hiện nay ở khu vực 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng là sự hợp tác, kết nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý, và giữa các doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau còn rất hạn chế.
Trên cơ sở sáng kiến hợp tác liên kết phát triển du lịch của Bắc Trung Bộ vẫn đang được thực hiện trong thực tiễn, Dự án EU đã xây dựng và đề xuất một mô hình quản lý điểm đến vùng với sự tham gia của nhiều bên liên quan. Đề xuất này hiện nay đang được thảo luận với các Sở VHTTDL và Ủy ban nhân dân các tỉnh.
Theo mô hình được đề xuất trước hết cần tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư tại cấp tỉnh bằng cách hoàn thiện Ban điều phối (hoặc
Ban chỉ đạo) du lịch tại mỗi tỉnh với sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp. Ban điều phối du lịch đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra nền tảng cho công tác quản lý khách, chất lượng và tăng trưởng và sẽ chia sẻ trách nhiệm đối với một loạt chức năng được xác định phù hợp với nhu cầu của từng tỉnh. Điều quan trọng là Ban điều phối du lịch phải mở rộng thành viên và mang lại những lợi ích thực sự cho các thành viên để khuyến khích sự tham gia của họ.
Mô hình đề xuất bao gồm cơ cấu phối hợp quản lý điểm đến vùng ở 2 cấp: cấp tỉnh và cấp vùng, với các hoạt động thiết thực có trách nhiệm tại cấp tỉnh và với sự hỗ trợ và giám sát của cấp cao hơn đó là cấp vùng.
Hiện nay, Ban chỉ đạo hợp tác phát triển du lịch Bắc Trung Bộ là cơ chế hợp tác hữu ích để chia sẻ thông tin, liên kết, phối hợp thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch ở khu vực. Tuy nhiên, do khoảng cách địa lý giữa các tỉnh quá xa nên gây nhiều khó khăn cho việc tham gia thường xuyên của các cán bộ vào công tác quản lý điểm đến vùng. Ý tưởng đề xuất của Dự án EU là nên hình thành hai tiểu vùng với 2 nhóm làm việc để có thể thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, giúp việc triển khai các chương trình hợp tác được thiết thực và hiệu quả hơn.
Đẩy mạnh phát triển du lịch tại các tỉnh Bắc Trung Bộ mở rộng luôn là mối quan tâm và là một trong những nội dung quan trọng trong công tác chỉ đạo của Tổng cục Du lịch. Với mô hình quản lý điểm đến vùng được đề xuất như đã trình bày ở trên, du lịch khu vực Bắc Trung Bộ sẽ có thể phát triển bền vững về môi trường, xã hội và kinh tế.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Đề tài “Liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ” đã :
- Đã hệ thống hoá, làm rõ một số lý luận cơ bản và thực tiễn về liên kết phát triển du lịch, cụ thể: Thứ nhất, lý thuyết về phát triển vùng; Thứ hai, về liên kết phát triển du lịch: (1) Liên kết thiết lập không gian du lịch thống nhất, hợp tác trong xây dựng các chương trình du lịch (tour du lịch) chung của toàn vùng; (2) Liên kết xây dựng sản phẩm du lịch; (3) Liên kết xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch; (4) Liên kết đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; Thứ ba, nghiên cứu về kinh nghiệm liên kết vùng, liên kết phát triển du lịch của một số quốc gia trên thế giới và một số vùng trong nước, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm liên kết du lịch cho vùng Bắc Trung Bộ.
- Về mặt lý luận, Luận án đã đi sâu phân tích và đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về liên kết phát triển du lịch vùng, từ đó luận án đã phản ánh được xu thế về liên kết phát triển du lịch và vai trò của nó trong phát triển ngành du lịch. Luận án xây dựng mô hình và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ gồm có 2 phần: (1) phần gốc là mô hình của gồm 5 nhóm yếu tố với 118 tiêu chí đánh giá và (2) phần mở rộng thuộc phía thị trường do tác giả độc lập nghiên cứu và hình thành mô hình đánh giá mới gồm 7 nhóm yếu tố với 47 tiêu chí đánh giá. 7 nhóm yếu tố đó là: Sản phẩm/điểm thu hút du lịch; An ninh – Trật tự - Môi trường xã hội; Vệ sinh – Môi trường; Cơ sở hạ tầng – tiện ích; Giá cả; Độ tin cậy, cởi mở, chuyên nghiệp của cư dân, nhân viên, cán bộ bản địa; Thương hiệu điểm đến du lịch vùng Bắc Trung Bộ. Về mặt thực tiễn, Mô hình đã đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ, đồng thời chỉ rõ được mặt mạnh, mặt yếu từng tiêu chí, xác định vị trí của liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ trong mối tương quan với các địa phương trong vùng. Các kết quả đánh giá có độ tin cậy cao cho phép tác giả đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường liên kết phát triển du lịch vùng Bắc Trung Bộ.
- Đề tài đã đề xuất các quan điểm và định hướng liên kết phát triển du lịch Bắc Trung Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn 2030. Đồng thời đề xuất bộ giải pháp tăng cương liên kết phát triển du lịch vùng, bao gồm: (1) Xây dựng chiến lược hợp tác liên kết vùng du lịch Bắc Trung Bộ; (2) Giải pháp liên kết xúc tiến quảng bá và phát triển thương hiệu du lịch vùng Bắc Trung Bộ; (3) Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư phát triển du lịch Bắc Trung bộ; (4) Phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Bắc Trung Bộ; (5) Liên kết phát triển du lịch trong mô hình quản lý điểm đến.
2. Kiến nghị
* Đối với nhà nước
- Bộ VH – TT – DL, Tổng cục Du lịch Việt Nam phối hợp với các ban ngành liên quan tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển du lịch vùng tầm quốc gia làm cơ sở để định hướng cho các quy hoạch và tổ chức các hoạt động du lịch tại các địa phương, các vùng có tiềm năng thành khối thống nhất về thể chế và quản lý.
- Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ, chỉ đạo cho các bộ ban ngành liên quan ủng hộ cho các địa phương xây dựng các quy hoạch, chiến lược phát triển du lịch vùng. Đồng thời có chính sách ưu tiên cho các dự án đầu tư du lịch; Có chính sách hỗ trợ về mặt tài chính để xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất tại các khu vực này nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển hoạt động du lịch.
* Đối với các địa phương trong vùng và ngành du lịch
- Cần chỉ đạo cho Sở VH-TT-DL phối hợp với các ban ngành tiến hành xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch liên kết chi tiết tại các vùng có tiềm năng phát triển du lịch tại địa phương. Đồng thời, thành lập ban hoặc tiểu ban chỉ đạo việc phát triển du lịch tại các điểm hoặc cụm tài nguyên; xúc tiến công tác đào tạo nhân lực và tuyên truyền quảng bá về tiềm năng du lịch của địa phương.
- Tranh thủ sự tài trợ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức môi trường để xây dựng các dự án quy hoạch phát triển tại các điểm tài nguyên; các chương trình hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; chương trình phát triển du lịch...