Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Kinh Tế Du Lịch Theo Hướng Phát Triển Bền Vững Ở Tỉnh Thừa Thiên Huế


* Về KTDL theo hướng PTBV định hướng sự phát triển luôn đi đôi với bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

- Tình tạng ô nhiễm tại các làng nghề truyền thống gây ra rất đáng lo ngại cho môi trường sống cũng như môi trường DL tỉnh TT-Huế. Hầu hết các làng nghề sản xuất với quy mô hộ gia đình, nằm xen kẽ trong các khu dân cư, phân tán trên địa bàn rộng, điều kiện hạ tầng còn thiếu thốn, công nghệ sản xuất lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, trình độ lao động còn hạn chế. Các làng nghề đều chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường, cam kết bảo vệ môi trường và cũng chưa thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.

- Môi trường KTDL đang bị đe doạ khi đứng trước thực tế là cùng với sự phát triển ngành KTDL sẽ góp phần làm gia tăng chất thải rắn sinh hoạt, gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó hoạt động kiểm soát môi trường tại các khu DL, resort và khách sạn còn hạn chế.

- Công tác dự báo và ứng phó với biến đổi của TT-Huế chưa được quan tâm đúng mức. Một số địa phương, ngành, đoàn thể và người dân vẫn chưa nhận thức rõ được những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế- xã hội.

- Ý thức trách nhiệm của các cơ sở kinh doanh DL với tài nguyên DL và môi trường chưa thật sự tốt

- Du khách vẫn còn đánh giá thấp về vệ sinh môi trường DL nói chung và vệ sinh tại các cơ sở ăn uống, lưu trú nói riêng của địa phương.

3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Dựa trên kết quả nghiên cứu, có thể đưa ra những nguyên nhân nhằm lý giải cho những hạn chế, tồn tại đối với KTDL theo hướng PTBV tại tỉnh TT-Huế trong giai đoạn vừa qua như sau:

* Nguyên nhân khách quan

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

- Tỉnh TT-Huế nằm ở dải đất miền Trung, với đặc thù về vị trí địa lý và khí hậu nên tỉnh thường xuyên bị ảnh hưởng bởi một số hiện tượng thời tiết không thuận lợi như mùa mưa kéo dài, bão, lụt,... Hơn thế nữa, trước nguy cơ biến đổi khí hậu, cùng với sự nóng lên của trái đất, dịch bệnh và thiên tai hoành hành... đã có tác động không nhỏ đến ngành KTDL toàn cầu như làm hư hại tài nguyên DL, ảnh hưởng đến nguồn khách DL, các dịch vụ kinh doanh DL... Điều này phần nào dẫn đến tính thời vụ cũng như tăng trưởng của ngành KTDL tỉnh TT-Huế giai đoạn vừa qua. Theo thống kê của


Kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở tỉnh Thừa Thiên Huế - 15

Sở DL tỉnh và nhiều tổ chức quốc tế uy tín, khách DL quốc tế thường đến tỉnh TT-Huế vào những tháng cuối năm và những tháng đầu năm (lại là những tháng mưa bão của tỉnh TT-Huế, nên hoạt động KTDL bị ảnh hưởng khá nhiều). Mặc khác, khách DL nội địa lại tập trung từ tháng 4 đến tháng 8 trong năm, đặc biệt là vào tháng 6, khi diễn ra lễ hội Festival, khách quốc tế ít tập trung tháng mùa hè do thời tiết nóng bức.

- Khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Điển hình như trong năm 2008 và đầu năm 2009, cơn bão suy thoái kinh tế thế giới đã tác động rõ nét tới nền kinh tế nước ta. Những tác động này đã kéo theo mức sống của người dân ngày càng khó khăn hơn, chi tiêu giảm sút kéo theo lượng khách nước ngoài đến Việt Nam nói chung và tỉnh TT-Huế nói riêng suy giảm trong một thời gian.

- Tình hình chính trị, an ninh thế giới và trong khu vực trong những năm gần đây đang đối diện với những thách thức vô cùng to lớn, đó là nạn khủng bố, bạo loạn, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và biển đảo… đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình chính trị và an ninh của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam mà cụ thể là một số địa phương phải chịu ảnh hưởng trực tiếp khá nặng nề. Điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến các nguồn tài nguyên DL đồng thời tạo tâm lý quan ngại cho du khách khi muốn đi DL.

- Hội nhập kinh tế quốc tế và liên kết phát triển KTDL giữa các vùng và các địa phương trong cả nước đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho KTDL tỉnh TT- Huế. Tuy nhiên, cũng từ đây áp lực cạnh tranh KTDL trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt, các chiến lược tiếp thị và nâng cao dịch vụ ngày càng được nâng lên một tầm cao hơn, quy mô hơn. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp DL địa phương còn rất hạn chế.

Đối với trong nước, sự xuất hiện và ngày càng phát triển của các điểm đến có khả năng cạnh tranh cao như: Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Bình…với những sản phẩm DL đa dạng, chất lượng cao đã tạo ra áp lực trong cạnh tranh và sự chia sẻ thị trường đối với ngành KTDL tỉnh TT-Huế thời gian qua.

- Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu và các nhà quản lý trong lĩnh vực KTDL của tỉnh cho thấy bản chất và tính cách của con người Huế cũng ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động KTDL [142]. Do tính cách vùng miền, con người Huế thường có thiên hướng chậm, ít thích đổi mới, thường sống bằng quá khứ và hình thành chủ nghĩa cục bộ. Cũng chính những yếu tố này nên trong thời gian qua ngành KTDL


tỉnh TT-Huế tuy đã đạt được những kết quả khả quan nhưng vẫn chưa có sự bứt phá lớn, thiếu mạnh dạn, đột phá trong đầu tư và xây dựng sản phẩm DL độc đáo, riêng có của địa phương.

- Công tác thống kê số liệu KTDL còn nhiều hạn chế và chưa thật sự hệ thống, thiếu tính chính xác đã khiến cho việc đánh giá tác động của ngành KTDL đến tăng trưởng kinh tế ở tỉnh TT-Huế, và đánh giá sự PTBV ngành KTDL địa phương chưa thật sự đầy đủ. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một phương pháp toàn diện và đầy đủ cũng như hệ thống các tiêu chí chuẩn để đánh giá sự PTBV của ngành KTDL đối với điều kiện đặc thù của từng địa phương trong đó có tỉnh TT-Huế.

* Nguyên nhân chủ quan

- Có thể nói nguyên nhân lớn nhất dẫn tới những hạn chế, yếu kém đối với KTDL theo hướng PTBV ở tỉnh TT-Huế trong giai đoạn vừa qua chính là mức độ tư duy, nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về việc xác định KTDL với tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn chưa thật sự sâu sắc, xứng tầm; thiếu tính đồng bộ và liên kết phát triển giữa các chủ thể liên quan cũng như với các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó trình độ hiểu biết về KTDL theo hướng PTBV trong cộng đồng còn rất hạn chế; đặc biệt thiếu đội ngũ lãnh đạo, quản lý có tầm nhìn xa trông rộng, có tư duy đột phá và tiến bộ trong định hướng bền vững đối với ngành KTDL địa phương.

- Công tác quy hoạch, thủ tục hành chính, quản lý nhà nước về KTDL và chiến lược cho KTDL theo hướng PTBV vẫn còn gặp nhiều hạn chế cơ bản. Đây được xem là một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp đến xu hướng PTBV của ngành KTDL tỉnh TT-Huế trong thời gian tới. Chẳng hạn, đối với công tác quy hoạch KTDL, ngoài loại hình DL di sản, ngành KTDL tỉnh TT-Huế chưa xác định một cách rõ ràng định hướng để phát triển các loại hình DL khác. Các định hướng được xác định phát triển trong Nghị quyết Tỉnh Ủy tháng 11/2016 bao phủ hầu hết các loại hình DL: DL di sản; DL nghỉ dưỡng, chữa bệnh; DL cộng đồng; DL sinh thái; DL biển, đầm phá; DL hội nghị, hội thảo; DL ẩm thực; DL vui chơi, giải trí; DL mua sắm. Trong khi đó, quy hoạch tổng thể phát triển KTDL của tỉnh TT-Huế được thực hiện bởi tổ chức Foundation of Future của Singapore lại xác định xây dựng tỉnh TT-Huế trở thành một thành phố Xanh, với 11 dự án đề xuất tìm kiếm nhà đầu tư, tập trung chủ yếu vào phát triển DL gắn với nông thôn, làng sinh thái, khách sạn nổi, làng văn hóa và làng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, sẽ là rất tốn kém để liên kết các địa điểm DL khi đầu tư dàn


trải trên một địa bàn rộng như tỉnh TT-Huế, trong khi du khách thường hạn chế về thời gian để có thể trải nghiệm các dịch vụ DL.

- Công tác quản lý nhà nước còn nhiều chồng chéo, kỷ luật hành chính chưa thật sự nghiêm, cải cách hành chính hạn chế và chưa có kết quả rõ rệt. Công tác quản lý và khai thác tài nguyên DL còn hạn chế, thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó công tác phân công, phối hợp giữa các ban, ngành cơ quan tại địa phương chưa thật sự liên kết, tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực KTDL để xứng tầm là ngành kinh tế mũi nhọn ở tỉnh TT-Huế như mục tiêu đã đề ra.

- Chưa có tính chiến lược ổn định, lâu dài và bền vững trong việc phát triển ngành KTDL như chiến lược thu hút khách DL, đặc biệt là thu hút khách DL quốc tế; chiến lược thu hút những nhà đầu tư lớn, những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh đến với địa phương.

- Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh DL, người dân, du khách về ý nghĩ, vai trò, nội dung của KTDL theo hướng PTBV cũng như vị trí, trách nhiệm của mỗi chủ thể đối với định hướng chưa được chú trọng đúng mức và đầy đủ đặc biệt đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá lịch sử và bảo vệ tài nguyên, môi trường trong phát triển KTDL.

- Nguồn lực để phát triển KTDL cho tỉnh TT-Huế vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Đặc biệt là sự khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư còn chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu và đầu tư dàn trải; việc thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn và thua kém nhiều so với các địa phương lân cận. Bên cạnh đó ngành KTDL địa phương còn thiếu đội ngũ quản lý và chuyên gia giỏi và việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong hoạt động KTDL vẫn còn thiếu tính đồng bộ, chuyên nghiệp. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KTDL nhìn chung còn kém phát triển, thiếu đồng bộ, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng tốt nhu cầu của du khách.

- Những hạn chế cơ bản thuộc về phía các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KTDL cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của ngành KTDL tỉnh TT- Huế trong những năm vừa qua. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh DL chưa thực sự thuận lợi, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do giá cả các mặt hàng thiết yếu như xăng, điện, thuế đất tăng… làm giá cả dịch vụ tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh, có doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ.

- Kinh tế Du lịch tỉnh TT-Huế đang đối mặt với những nguy cơ đó là không giữ chân được du khách, mức chi tiêu bình quân của du khách thấp hay du khách ít có nhu


cầu quay trở lại Huế trong lần tiếp theo. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực tế trên là do sản phẩm và dịch vụ DL tại địa phương còn quá đơn điệu, nhàm chán; thiếu những sản phẩm và dịch vụ DL chất lượng cao, mang tính đột phá, hấp dẫn; chưa khai thác tốt thị trường hàng hoá đồ lưu niệm và quà tặng mang đặc trưng văn hoá Huế…

- Liên kết phát triển KTDL của tỉnh TT-Huế với các địa phương khác chưa thật sự mang lại hiệu quả như mong đợi. Hiện nay, liên kết KTDL mạnh nhất của tỉnh TT-Huế là với Quảng Nam và Đà Nẵng. Tuy nhiên, sức nóng cạnh tranh đang dần lấn át sự hợp tác giữa các địa phương trong việc thu hút khách DL, thường xuyên xảy ra bất đồng do sự khác biệt về nguồn lực, lợi thế cạnh tranh và định hướng của mỗi địa phương.

3.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở tỉnh Thừa Thiên Huế

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu và hạn chế đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đối với KTDL theo hướng PTBV trong giai đoạn vừa qua, có thể thấy bên cạnh những kết quả đạt được, ngành KTDL tỉnh TT-Huế vẫn đang phải đối mặt với những vấn đề cần phải giải quyết. Có thể khái quát một số vấn đề chính như sau:

Thứ nhất, KTDL là một hoạt động kinh tế đem lại nhiều lợi ích lớn nếu được quản lý, khai thác hợp lý và đúng đắn. Do vậy, để KTDL tỉnh TT-Huế thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và PTBV thì phải có “tư duy làm KTDL từ lãnh đạo cho đến người dân”; cần sự quan tâm, vào cuộc của các ban, ngành chức năng và sự đồng thuận của toàn xã hội. Tiến hành lồng ghép KTDL vào trong quy hoạch phát triển của địa phương và quốc gia; kết hợp với các ngành kinh tế khác nhằm phát huy cao nhất tính liên ngành dưới sự quản lý chung của nhà nước để hỗ trợ KTDL một cách hiệu quả nhất, đem lại sự PTBV về mọi mặt kinh tế, văn hoá - xã hội và môi trường.

Thứ hai, mục tiêu của KTDL theo hướng PTBV là vì sự phát triển của cộng đồng, đem lại lợi ích cho cộng đồng trong trước mắt cũng như lâu dài, và ngược lại phát triển KTDL bền vững chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cộng đồng, sự tham gia của người dân cũng giảm được những yếu tố xung đột có thể xảy ra trong hoạt động KTDL.

Thứ ba, phát triển KT-XH trong đó có ngành KTDL theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững là mục tiêu xuyên suốt của Đảng bộ và nhân dân tỉnh TT-Huế. Do đó cần ưu tiên mọi nguồn lực để phát triển KTDL với tư cách là ngành kinh tế mũi nhọn. Trong đó cần tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, nguồn nhân


lực chất lượng cao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và đa dạng hoá nguồn vốn cho hoạt động KTDL tại địa phương.

Thứ tư, DL là “sự kết nối giữa con tim với con tim”, chất lượng sản phẩm, dịch vụ DL và sự thân thiện của người dân đối với khách DL sẽ giúp kết nối con tim của du khách và tạo động lực để họ quay trở lại. Tỉnh TT-Huế cần có giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ DL; tạo ra những sản phẩm DL mang tính đột phá và hơn hết là xây dựng văn hoá ứng xử tốt trong hoạt động KTDL.

Thứ năm, xác định đúng đắn lợi thế về di sản văn hoá, lịch sử để có chiến lược tổng thể cho KTDL theo hướng PTBV được xem là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách đối với tỉnh TT-Huế hiện nay, nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để đưa KTDL phát triển lên một tầm cao mới. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát triển KTDL mà vẫn giữ được những nét độc đáo, những giá trị đặc trưng và tinh hoa của di sản văn hoá; giải quyết bài toán cân bằng giữa phát triển và bảo tồn? Vì vậy, tỉnh TT-Huế cần có kế hoạch tổng thể và toàn diện hơn về công tác bảo tồn và khai thác tài nguyên DL.

Thứ sáu, KTDL và tài nguyên, môi trường là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Một khi môi trường bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm thì ngành KTDL cũng sẽ mất dần đi các cơ hội và tiềm năng phát triển của mình. Chính vì vậy, để phát triển KTDL theo hướng bền vững ở tỉnh TT-Huế, cần có những giải pháp đồng bộ về phát triển KTDL gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, KTDL theo hướng PTBV cần chú ý tới khả năng tải của các khu, điểm DL để tránh gây sức ép và khai thác tài nguyên DL một cách kiệt quệ.

Thứ bảy, KTDL là hoạt động đem lại lợi ích lớn nếu khai thác hợp lý và đúng đắn, do đó cần liên kết phát triển KTDL trên cơ sở phát huy năng lực của các chủ thể có liên quan; liên kết với các địa phương, các vùng kinh tế đồng thời mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực.

Qua những phân tích, đánh giá trên có thể thấy rằng KTDL tỉnh TT-Huế giai đoạn 2006 - 2016 đã có những bước tiến mới nhưng vẫn thiếu tính bền vững trên nhiều mặt. Để có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra đồng thời thúc đẩy KTDL theo hướng PTBV ở tỉnh TT-Huế, đòi hỏi cần sớm tìm ra những giải pháp đồng bộ, hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.


Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH KINH TẾ DU LỊCH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

4.1. BỐI CẢNH CHUNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH TẾ DU LỊCH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

4.1.1. Bối cảnh quốc tế

Theo dự báo của Tổ chức DL thế giới (UNWTO), đến năm 2020 ngành KTDL sẽ có bước phát triển vượt bậc, dự kiến lượng khách DL quốc tế vào năm 2020 sẽ đạt 1,602 tỷ lượt người, doanh thu từ hoạt động KTDL đạt khoảng 2.000 tỷ USD. Dự kiến đến năm 2030, số lượng khách DL quốc tế sẽ lên đến 1,8 tỷ lượt người, trong đó châu Á và Thái Bình Dương sẽ thu hút 535 triệu lượt khách DL, riêng khu vực Đông Nam Á sẽ thu hút khoảng 187 triệu lượt khách DL. Trong đó khách đi DL với mục đích tham quan và vui chơi giải trí chiếm tỷ lệ khoảng 54%; với mục đích tôn giáo và chăm sóc sức khỏe chiếm tỷ lệ khoảng 31%; mục đích công việc và nghề nghiệp chiếm 15% [204].

Việc phát triển KTDL theo hướng PTBV ở tỉnh TT-Huế sẽ không thể tách rời với sự phát triển chung của ngành KTDL trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, cần nhìn nhận đúng đắn các xu hướng phát triển của ngành KTDL trong khu vực và trên thế giới sẽ tạo cơ hội cho việc định hướng phát triển ngành KTDL tại tỉnh TT-Huế một cách phù hợp trong giai đoạn hội nhập, hướng đến phát triển KTDL bền vững. Nhìn chung, trong thời gian tới, KTDL của các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ phát triển theo một số xu hướng chính như sau:

Một là, nhờ sự phát triển của ngành giao thông vận tải trên thế giới, ngành KTDL sẽ có bước phát triển vượt bậc do phương tiện vận chuyển với chi phí ngày càng thấp, hiện đại và nhanh chóng hơn. Ngoài ra, sự ổn định của hệ thống chính trị các quốc gia cùng với đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày một nâng cao góp phần thúc đẩy sự PTBV ngành KTDL.

Hai là, xu hướng DL của du khách quốc tế dần có sự thay đổi, thị trường DL tại các nước châu Á có xu hướng gia tăng trong tương lai. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới, các quốc gia Châu Á, đặc biệt là các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng KTDL hằng năm khoảng 22,1% - 27,3% [204].

Ba là, nhu cầu của du khách ngày một trở nên da dạng hơn. Bên cạnh đó nhờ mức sống tăng cao nên mức chi tiêu của người dân dành cho mua sắm khi DL có xu hướng tăng trưởng.


Bốn là, ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ 4.0 góp phần thay đổi phương thức tiếp cận thông tin của khách DL, đặc biệt dưới sự hỗ trợ của internet và điện thoại di động. Chính vì thế khách DL sử dụng các dịch vụ DL trọn gói có xu hướng giảm, thay vào đó là sự phát triển của các ứng dụng hỗ trợ đặt chỗ DL qua Webiste và Ứng dụng điện thoại. Ngoài ra khách DL có xu hướng tự tổ chức hay sử dụng chỉ một phần dịch vụ của các doanh nghiệp KTDL có xu hướng gia tăng.

Năm là, thế giới ngày càng cởi mở hơn, các chính sách mở cửa và đơn giản hóa các thủ tục nhập cảng đang là xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế giới. Các hiệp ước song phương, đa phương, các quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới về xúc tiến phát triển KTDL ngày một mở rộng tạo nên một thị trường KTDL ngày một sôi động.

Sáu là, mức sống gia tăng dẫn đến nhu cầu trải nghiệm của khách DL cũng dần có sự thay đổi. Du khách có xu hướng hướng đến những giá trị truyền thống, giá trị tự nhiên. Ngoài ra, dưới tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp đã khiến cho môi trường sống của các nước đang dần xuống cấp, đe dọa đến sức khỏe và môi trường sống của con người. Chính vì thê, khách DL có xu hướng tìm đến thiên nhiên, được nghỉ ngơi ở những địa phương có không khí trong lành, môi trường sinh thái tốt. Do vậy DL sinh thái, DL cộng đồng, DL biển… đang là xu hướng được du khách quan tâm và lựa chọn.

Ngoài các xu hướng trên do cuộc cạnh tranh nguồn khách giữa các quốc gia diễn ra gay gắt nên nhiều nước đã giảm đến mức tối thiểu các thủ tục (thị thực, cấp phép visa, hoàn thuế…). Nhận biết xu hướng trên có ý nghĩa thiết thực để phát triển ngành KTDL Việt Nam nói chung và KTDL theo hướng PTBV ở Thừa Thiên Huế nói riêng.

4.1.2. Bối cảnh trong nước

Kinh tế du lịch được xem là ngành công nghiệp không khói có tiềm năng phát triển vô cùng lớn đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nước ta với điều kiện chính trị ổn định, tài nguyên thiên thiên có nhiều thuận lợi, đặc biệt là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển KTDL theo hướng PTBV đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành KTDL trong những năm vừa qua. Đây là cơ hội tốt cho KTDL nước ta phát triển, khẳng định vị thế trên thị trường khu vực và thế giới. Bên cạnh đó dưới sự nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước về KTDL, các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023