Kinh tế du lịch Phần 1 - 22


- Cơ cấu và sự phát triển ngành du lịch hoặc các lĩnh vực của ngành;

- Thị trường và dòng khách du lịch;

- Giá cả các sản phẩm du lịch;

- Các khoản thanh toán nhân tố sản xuất và đầu vào;

- Doanh nghiệp địa phương và công nghệ sản xuất.

Sau đây sẽ đề cập chi tiết các lĩnh vực tác động trên của công ty đa quốc gia đối với nền kinh tế nước chủ nhà (nước có chi nhánh).

a. Cơ cấu và sự phát triển ngành du lịch

Chính phủ nước chủ nhà thường khuyến khích thành lập các chi nhánh của công ty đa quốc gia để hoạt động kinh doanh bởi vì doanh nghiệp địa phương chưa phát triển hoặc quốc gia đó có nhiều tài nguyên phù hợp. Điều này dẫn đến cơ cấu các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch bị chi phối hoặc kiểm soát từ bên ngoài nhất là ở các nước kém phát triển, trừ khi chính phủ nước chủ nhà áp đặt các điều kiện ràng buộc. Ví dụ, theo hợp đồng, một hãng hàng không nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ vận chuyển đến và tại một quốc gia nhỏ. Điều đó có thể làm hạn chế các hãng hàng không khác tham gia cung cấp dịch vụ và áp đặt sự độc quyền có thể có lợi hoặc không có lợi cho nền kinh tế nước chủ nhà. Thậm chí, một công ty đa quốc gia có thể áp đặt độc quyền ở nước chủ nhà để ngăn cản sự thâm nhập của các công ty đa quốc gia khác cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương.

Một số quốc gia ký các hợp đồng riêng rẽ với các công ty đầu tư phát triển như Câu lạc bộ Địa Trung Hải hoặc tập đoàn khách sạn của Mỹ, những công ty này không chỉ hạn chế sự cạnh tranh mà còn hạn chế quyền tự chủ của nước chủ nhà trong các quyết định về kiểu loại dự án phát triển. Các công ty đầu tư phát triển có thể chi phối diện mạo các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch (ví dụ chỉ tập trung xây dựng sân bay mới, giao thông nội địa) và cơ cấu dịch vụ tại điểm đến.


Nếu các công ty đa quốc gia phát huy được vị thế độc quyền ở nền kinh tế nước chủ nhà thì họ có thể tác động đến việc hoạch định chính sách phát triển du lịch, thậm chí có thể gây áp lực đối với chính phủ thay đổi quy hoạch phát triển du lịch theo các yêu cầu của chính họ (ví dụ yêu cầu các nước chủ nhà cần phải chi tiêu nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng).

Mặc dù có các hạn chế nêu trên, nhiều quốc gia vẫn khuyến khích các công ty đa quốc gia nước ngoài trong du lịch trừ khi các quốc gia này lựa chọn không phát triển ngành du lịch. Chính phủ các quốc gia này có xu hướng đàm phán chi tiết và chặt chẽ hơn với các công ty đa quốc gia ở giai đoạn đầu. Khi du lịch toàn cầu phát triển và số lượng các công ty đa quốc gia tìm kiếm hoạt động kinh doanh ở nước ngoài tăng lên thì chính phủ nước chủ nhà giành được nhiều ưu thế hơn trong thoả thuận với các công ty đa quốc gia.

b. Thị trường và dòng khách du lịch

Mức độ ràng buộc của công ty đa quốc gia với nền kinh tế nước chủ nhà tuỳ thuộc vào khả năng lợi nhuận thu được từ nền kinh tế đó khi so sánh với các nước khác. Khả năng sinh lợi có thể bắt nguồn trực tiếp từ hoạt động kinh doanh của các công ty con hoặc có thể phản ánh các điều kiện thị trường của nền kinh tế ở các nước nguồn khách, nhất là trong trường hợp du lịch quốc tế. Ví dụ, các công ty lữ hành Nhật Bản rút lui khỏi Canada vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX bởi vì ở nơi khác có khả năng sinh lợi lớn hơn và cũng trong thời gian này các tập đoàn khách sạn và công ty lữ hành của Anh đã giảm bớt các công ty con ở Malta bởi vì khách du lịch Anh không còn mong muốn đến đó nữa. Các thị trường nguồn khách du lịch cũng có thể phụ thuộc - mặc dù không nhiều vào các công ty đa quốc gia nước ngoài để đáp ứng nhu cầu du lịch ở các thị trường này có thể quy mô nhỏ nhưng có sức mua đáng kể (ví dụ như các tiểu vương quốc ở Trung Đông).

Một vấn đề khó nhận biết hơn là các công ty đa quốc gia du lịch có thể chi phối hoặc kiểm soát các dòng khách du lịch, đặc biệt giữa các quốc gia nguồn khách và quốc gia điểm đến. Ví dụ, một hãng hàng


không kết hợp với kinh doanh khách sạn sẽ tìm cách tối đa hoá thu nhập trên các tuyến bay của mình bằng cách tập trung bán cho các phân khúc thị trường có khả năng lợi nhuận cao và ổn định công suất chuyên chở khách. Vì vậy, một khu nghỉ dưỡng đặc biệt ở Bahama có thể lệ thuộc chủ yếu vào thị trường khách là những người New York trung lưu; một khu nghỉ dưỡng ở Thái Lan lệ thuộc vào các cặp vợ chồng từ Nhật Bản đến hưởng tuần trăng mật. Sự phụ thuộc đặc biệt vào thị trường khách như vậy là mạo hiểm vì điểm đến du lịch bị đặt vào tình huống phải thay đổi theo điều kiện của từng thị trường riêng lẻ, đồng thời cơ quan quản lý nhà nước về du lịch của quốc gia điểm đến có thể không còn kiểm soát được thị trường mục tiêu. Cơ quan này có thể chỉ mong muốn thu hút một số ít du khách cao cấp có mức chi tiêu cao, nhưng các công ty đa quốc gia với tính chất thương mại lại muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách chào bán sản phẩm cho thị trường khách đại chúng - những người ưa thích kiểu du lịch gia đình, theo nhóm đông và chi tiêu tiền bạc không nhiều. Ở một khía cạnh khác thì sự tập trung thị trường cùng với hiệu quả kinh tế theo quy mô nhận được từ thị trường khách du lịch đại chúng và yêu cầu tiêu chuẩn hoá dịch vụ có thể dẫn đến sự phát triển du lịch có tính "cô lập". Sự phát triển này có thể hoàn toàn độc lập với nền kinh tế cũng như tách biệt với các đặc điểm tự nhiên và văn hoá của nước chủ nhà.

c. Giá cả các sản phẩm du lịch

Giảm giá theo số lượng và cho khách mua thường xuyên là chính sách khá phổ biến đối với nhiều sản phẩm trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp du lịch còn hoạt động với chính sách giá phân biệt theo mùa vụ (thường giảm giá lúc trái vụ) để điều hoà cầu phù hợp với cung. Các công ty lữ hành, tổng đại lý và các nhà phân phối du lịch khác sử dụng quyền mặc cả khi đàm phán mức giá mua số lượng lớn với các nhà cung ứng để họ có thể cạnh tranh về giá ở các thị trường nguồn khách. Việc này luôn xảy ra ở các thị trường du lịch đại chúng, ví dụ, các công ty lữ hành Đức và Anh nổi tiếng trong đàm phán được mức giá rẻ nhất với các nhà kinh doanh khách sạn và các điểm hấp dẫn du lịch ở Hy Lạp và Tây Ban Nha. Các công ty đa quốc gia chính thức hoá và


nội bộ hoá các cuộc đàm phán một cách dễ dàng. Các mức giá được hình thành trong tương quan với các thị trường của công ty đa quốc gia (các thị trường nguồn khách) và chi phí các dịch vụ cấu thành do công ty con cung cấp phản ánh yêu cầu lợi nhuận và theo phương thức kế toán của công ty mẹ hơn là của mỗi công ty thành viên.

Vì vậy, hoạt động kinh doanh đa quốc gia thường áp dụng phương pháp định giá chuyển nhượng. Đó là phương pháp xác định các mức giá "giả" cho mỗi thành tố của một sản phẩm đa quốc gia (ví dụ một chương trình du lịch trọn gói) để tối đa hoá lợi ích hợp thành. Phương pháp này thường được sử dụng để giảm thiểu thuế, đặc biệt là thuế lợi tức (thuế thu nhập). Phương pháp định giá chuyển nhượng cùng với sự thay đổi thời hạn thanh toán các khoản ngoại tệ một cách linh hoạt để lợi dụng sự biến động của tỷ giá trao đổi có thể gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho nền kinh tế các nước chủ nhà.

Hãy xem xét một ví dụ giả định sau: Công ty lữ hành A có văn phòng bán tour ở quốc gia A, làm chủ một hãng hàng không đăng ký ở quốc gia B và có các cơ sở lưu trú tại điểm đến ở quốc gia C. Công ty bán một tour du lịch trọn gói với giá 1.000 USD ở quốc gia A và không mua hoặc bán các yếu tố cấu thành ở bên ngoài, nhưng hình thành các mức giá kế toán nội bộ giữa các công ty chi nhánh. Bảng 4.121 phản ánh quá trình giảm thiểu thuế lợi tức của công ty bằng phương pháp định giá chuyển nhượng.

Công ty đa quốc gia nâng giá thành ở các nước có tỷ lệ thuế cao để giảm lợi nhuận công bố và do đó, giảm thuế lợi tức và làm ngược lại ở các nước có tỷ lệ thuế thấp. Ví dụ, có thể thực hiện việc này bằng cách nâng giá trị các tài sản ở quốc gia điểm đến C, giảm giá vé máy bay ở quốc gia B và phân bổ lại các chi phí quản lý hành chính hoặc các giao dịch nội bộ công ty chi nhánh. Kết quả là giảm khoản nợ thuế nói chung khoảng 2% trên tổng doanh thu hoặc từ 40% thuế lợi tức xuống chỉ còn



21 Theo: Bull, A. (1998), The Economics of Travel and Tourism, 2nd edition, Longman, Melbourne.


20%. Lợi nhuận phi thương mại có thể còn tăng thêm nhờ lựa chọn đúng thời điểm thanh toán cho các khoản ngoại tệ để lợi dụng tỷ lệ ngoại hối có lợi.


Bảng 4.1. Phương pháp định giá chuyển nhượng của một công ty lữ hành

Đơn vị tính: USD



Quốc gia

Tỉ lệ thuế lợi tức (%)

Giá thành X

Giá bán Y

Lãi thực Y - X

Thuế thực

A. Văn phòng

40

180

200

20

8

B. Vận chuyển hàng không

20

360

400

40

8

C. Lưu trú

tại điểm đến

60

360

400

40

24



900

1000

100

40


Giá chuyển nhượng (chi phí công bố Z)

Lợi nhuận công bố

Y- Z

Thuế đã trả

A

200

0

0

B

300

100

20

C

400

0

0


900

100

20

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.

Kinh tế du lịch Phần 1 - 22


d. Các khoản thanh toán nhân tố sản xuất và đầu vào

Lợi ích kinh tế nhận được của bất kỳ quốc gia nào từ du lịch sẽ bị hạn chế bởi mức độ rò rỉ của thu nhập ra khỏi nền kinh tế. Sự rò rỉ được chia thành hai nhóm chính:

- Khoản thanh toán đối với các hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu.

- Khoản thanh toán các nhân tố sản xuất của nước ngoài.


Không có căn cứ để cho rằng một chi nhánh của công ty đa quốc gia có xu hướng nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho hoạt động kinh doanh nhiều hơn một doanh nghiệp địa phương cùng loại ở nước chủ nhà. Trên thực tế, nhiều công ty đa quốc gia muốn bảo vệ hình ảnh của mình ở các nước chủ nhà nên họ thận trọng trong việc khai thác sử dụng các nguồn đầu vào của địa phương. Điều này thậm chí có thể được coi là một nội dung trong chính sách của công ty. Tuy nhiên, các công ty đa quốc gia trong du lịch nói riêng thường không thể so sánh được với các doanh nghiệp địa phương vì họ phải giữ mối liên hệ với nền kinh tế các quốc gia của chính mình.

Thứ nhất, như đã đề cập ở trên, các công ty chi nhánh ở quốc gia nơi đến thường cần các hàng hoá và dịch vụ mà du khách quen tiêu dùng như ở “quê hương”. Các tập đoàn khách sạn Mỹ thường dự trữ bia và thuốc lá Mỹ; các tập đoàn khách sạn Nhật Bản thường nhập khẩu thực phẩm và nội thất từ Nhật để phục vụ những người dân của mình. Thứ hai, nếu công ty mẹ đề cao hình ảnh đại diện quốc gia của mình hoặc yêu cầu tiêu chuẩn hoá toàn cầu thì các công ty chi nhánh phải phản ánh điều này trong hoạt động kinh doanh. Hãng hàng không Pháp và các Khách sạn Meridien khuếch trương hình ảnh nước Pháp của họ khắp thế giới thông qua những vật dụng trưng bày và sản phẩm tiêu dùng.

Khoản thanh toán các nhân tố sản xuất của nước ngoài tạo nên sự rò rỉ nghiêm trọng hơn. Các nước kém phát triển thường khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài vì họ không có các nguồn lực cần thiết do đó sự rò rỉ thông qua việc hoàn lại các nhân tố sản xuất chắc chắn sẽ xảy ra. Nhân tố sản xuất cố định duy nhất trong du lịch là đất đai và các điểm hấp dẫn, tuy nhiên những nhân tố này có thể chuyển thành sở hữu của nước ngoài. Các công ty đa quốc gia có thể cung cấp các nhân tố đầu vào khác từ các nguồn có hiệu quả nhất phù hợp với sản xuất của họ. Do đó, nếu các điều kiện khác không đổi thì nguồn vốn cổ phần và vốn vay từ các thị trường vốn có tỷ lệ lãi suất thấp (giả sử nền kinh tế nước chủ nhà không hạn chế các dòng vốn) thì các khoản thanh toán lãi suất sau đó sẽ là sự rò rỉ. Lao động có kỹ năng có thể được nhập khẩu, đặc biệt lao động


quản lý và làm cho những người lao động địa phương ít có cơ hội thăng tiến vào các vị trí quản lý cấp cao. Kết quả là có sự rò rỉ từ một phần tiền lương (có thể là phần lớn nhất) của lao động nhập khẩu gửi về nước của họ.

Các công ty chi nhánh của công ty đa quốc gia không có xu hướng nhập khẩu thiết bị nhiều hơn các doanh nghiệp địa phương. Các phương tiện vận chuyển hành khách ở điểm đến (như ô tô buýt, taxi, hệ thống đường sắt, ô tô cho thuê...) thường có nguồn gốc từ Nhật, Đức hoặc Mỹ do các công ty lữ hành địa phương cũng như do công ty đa quốc gia của một trong các nước này nhập về.

Như vậy, sự rò rỉ chủ yếu từ các hoạt động kinh doanh của công ty đa quốc gia là lợi nhuận và tiền lương. Mặc dù có rất ít bằng chứng về các công ty đa quốc gia thu được siêu lợi nhuận trong mối quan hệ với nền kinh tế quốc gia của chính mình, nhưng với vị thế độc quyền đã tạo cho các công ty này thu được siêu lợi nhuận tương đối ở nền kinh tế các nước chủ nhà. Phương pháp định giá chuyển nhượng thực chất là việc rút ra các lợi nhuận “thực” một cách hiệu quả, mặc dù biểu hiện bên ngoài là dường như không có sự rò rỉ nào khỏi nền kinh tế của các nước chủ nhà.

Tác động tổng hợp của sự rò rỉ các khoản thanh toán gắn với hoạt động kinh doanh của các công ty đa quốc gia ở cả hai đầu của dòng du khách làm giảm đáng kể sự đóng góp của du lịch vào GDP của nền kinh tế nước chủ nhà. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ 31 - 33% tổng chi tiêu của du khách có thể được giữ lại ở điểm đến khi du khách mua một tour du lịch trọn gói của một công ty lữ hành gửi khách đa quốc gia. Nếu các yếu tố cấu thành của sản phẩm du lịch nói trên được cung cấp riêng lẻ và của địa phương nhiều hơn thì thu nhập giữ lại được ở điểm đến có thể đạt hơn 50% tổng chi tiêu của du khách.

đ. Doanh nghiệp địa phương và công nghệ sản xuất

Trong khi nhiều công ty lữ hành và hãng hàng không mở rộng hoạt động kinh doanh đa quốc gia chủ yếu để tích hợp sản xuất theo chiều dọc


đối với thị trường trong nước thì các công ty đa quốc gia khác trong du lịch có thể mở rộng theo chiều ngang vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhằm đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô vì họ có thể sử dụng công nghệ sản xuất tiên tiến hơn so với các doanh nghiệp địa phương. Do đó, họ có thể thu được lợi nhuận cao hơn.

Những lợi thế sản xuất liên quan đến các tập đoàn khách sạn được xác định là:

- Các kỹ năng và kinh nghiệm hậu cần trong ngành.

- Tiếp cận công nghệ cao - đặc biệt quan trọng đối với các khách sạn sang trọng hoặc khách sạn quốc tế.

- Nguồn nhân lực và các yếu tố vật chất đầu vào nhiều hơn và rẻ hơn so với các doanh nghiệp địa phương có thể nhận được.

- Các chuyên gia hoạch định và đào tạo nhân viên, cung cấp các kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và phân phối dịch vụ.

Hiện nay, các hệ thống đặt giữ chỗ qua máy tính và hệ thống kế toán toàn cầu góp phần bổ sung thêm vào các lợi thế nói trên. Các chi phí giao dịch thấp liên quan đến sự chuyển giao quốc tế các công nghệ này của công ty đa quốc gia tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với các doanh nghiệp địa phương, đặc biệt ở các nước chậm phát triển. Các nguyên tắc này cũng được áp dụng tương tự trong các lĩnh vực đại lý du lịch, cho thuê xe du lịch và các lĩnh vực khác.

Lợi ích cuối cùng đối với quốc gia chủ nhà là nhận được sự chuyển giao công nghệ sản xuất thông qua các tác động định hướng. Các lợi ích được tích luỹ lại một cách nhanh chóng nhất ở các quốc gia có các doanh nghiệp địa phương cạnh tranh mạnh mẽ và đồng hoá các công nghệ sản xuất cao một cách nhanh chóng. Hiện nay, chính phủ một số quốc gia quy định việc chuyển giao các kỹ năng và công nghệ du lịch như là một điều kiện của đầu tư đa quốc gia.

Xem tất cả 188 trang.

Ngày đăng: 11/07/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí