việc không được trả lương. 12,1 phần trăm trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế vượt quá ngưỡng thời gian tương ứng với tuổi. Tỷ lệ trẻ em 5-17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế vượt quá ngưỡng số giờ tương ứng với tuổi không có sự khác biệt lớn giữa nam và nữ. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, trong khi vùng thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng chỉ ở mức 3,0 phần trăm, thì tỷ lệ này ở vùng cao nhất là Trung du và miền núi phía Bắc lên tới 25,5 phần trăm; tỷ lệ này ở khu vực nông thôn cao hơn thành thị (14,0 phần trăm so với 7,5 phần trăm); nhóm dân tộc thiểu số cao hơn nhóm Kinh/Hoa (9,2 phần trăm so với 26,1 phần trăm); trẻ em không đi học (chiếm 32 phầm trăm) cao hơn gấp 3 lần tỷ lệ trẻ em đi học (10,4 phần trăm). [28]
Những con số trên tuy chưa thể phản ánh chính xác nhất tính hình lao động trẻ em hiện nay tại Việt Nam vì còn chưa có những tổng hợp thống nhất về những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như: nô lệ, trẻ em trong thương mại tình dục hoặc trẻ em buôn bán ma túy … và những báo cáo này được tiến hành thu thập, điều tra từ năm 2012 – 2014. Tuy nhiên, những báo cáo trên cũng thể hiện tình trạng đáng lo ngại về lao động trẻ em hiện nay.
2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động:
Hệ thống văn bản chính sách, pháp luật của Việt Nam về phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em bao gồm Hiến pháp 2013 và một số luật chuyên ngành, trong đó tiêu biểu là Bộ luật Lao động 2012, Luật Trẻ em 2016 và Bộ luật Hình sự 2015. Ngoài ra, còn một số văn bản dưới luật như quan trọng như Thông tư số 10/2013/QĐ-BLĐTBXH ban hành Danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên và Thông tư số 11/2013/TT- BLĐTBXH ban hành Danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc. Điều 37 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược
đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
2.2.1. Quy định tại Bộ luật lao động:
Bộ luật lao động Việt Nam năm 2012 dành riêng 1 chương (Chương XI) quy định đối với lao động chưa thành niên. Theo điều 161 Bộ luật lao động năm 2012: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Việc quy định như vậy có ý nghĩa loại trừ tất cả các trường hợp khác nhau ở độ tuổi lao động đầy đủ, xác định ranh giới, phạm vi tham gia công việc, tạo điều kiện đảm bảo và có những phương hướng bảo vệ người lao động chưa thành niên trong quan hệ lao động và thị trường lao động. Theo Điểu 3 Bộ luật lao động năm 2012, người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi lao động tối thiểu là 15 tuổi, tương ứng với quy định của Công ước số 138 của ILO.
Về việc sử dụng lao động chưa thành niên, tại Điều 162, Bộ luật lao động năm 2012 quy định:
“1. Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động.
2. Khi sử dụng người lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu”
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên làm các công việc “phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách”. Người sử dụng lao động phải quan tâm đến 3 vấn đề mà người lao động
dưới 18 tuổi dễ bị tổn hại như: thể lực, trí lực và nhân cách. Đồng thời người sử dụng lao động cũng cần quan tâm đến tiền lương, sức khỏe và học tập của người lao động trong trường hợp này. Ngoài ra, người sử dụng lao động còn phải lập sổ theo dõi đối với những lao động chưa thành niên. Điều này nhằm mục đích giúp người sử dụng lao động nắm bắt được những vấn đề mà người lao động dưới 18 tuổi đang hoặc có thể gặp phải, từ đó có những biện pháp phù hợp để điều chỉnh và bảo vệ lao động chưa thành niên.
Bộ luật lao động năm 2012 cũng quy định rõ về nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên (Điều 163). Theo đó, do người lao động chưa thành niên nhạy cảm với các yếu tố nguy hiểm, độc hại, dễ sa đà và bị cám dỗ bởi các chất gây nghiện, lại chưa đủ nhận thức và thiếu kinh nghiệm trong việc phòng tránh, vậy nên pháp luật nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành niên trong những hoạt động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có liên quan đến sản xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện. Đối với những lao động còn trong độ tuổi đi học, chưa hoàn thành giáo dục phổ thông (dưới 15 tuổi) thì được tạo điều kiện để học văn hóa. Người sử dụng lao động trong trường hợp này không được phép cản trở hoặc có hành động làm ảnh hưởng đến việc đi học của lao động chưa thành niên. Ngoài ra, Điều 163 cũng đề cập đến thời giờ làm việc của những lao động chưa thành niên.
Bảng 2.2: Thời giờ làm việc của lao động chưa thành niên
Thời giờ làm việc | |
Từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi | - Không quá 8 giờ 1 ngày và 40 giờ 1 tuần - Được phép làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề và công việc theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. |
Dưới 15 tuổi | - Không được quá 4 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần |
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình - 2
- Một Số Khái Niệm Liên Quan Đến Lao Động Trẻ Em:
- Căn Cứ Phát Sinh Quyền Và Nghĩa Vụ Đối Với Con:
- Thực Trạng Vấn Đề Bảo Vệ Trẻ Em Trong Lĩnh Vực Hôn Nhân Gia Đình:
- Giải Pháp Nhằm Đảm Bảo Thực Hiện Bảo Vệ Trẻ Em Trong Lĩnh Vực Lao Động:
- Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình - 8
Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.
- Không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm
Đối với người lao động từ 13 đến dưới 15 tuổi, pháp luật Việt Nam quy
định những người này chỉ có thể làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định (theo Điều 164 Bộ luật Lao động năm 2012). Đồng thời, người sử dụng lao động và người đại diện hợp pháp phải có hợp đồng lao động bằng văn bản với sự đồng ý của người lao động.
Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định về các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên (Điều 165).
“1. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm các công việc sau đây:
a) Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên;
b) Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;
c) Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc;
d) Phá dỡ các công trình xây dựng;
đ) Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại;
e) Lặn biển, đánh bắt cá xa bờ;
g) Công việc khác gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên.
2. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm việc ở các nơi sau đây:
a) Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm;
b) Công trường xây dựng;
c) Cơ sở giết mổ gia súc;
d) Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm hơi, phòng xoa bóp;
đ) Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của người chưa thành niên.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục tại điểm g khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều này”
Việc ban hành quy định này là rất cần thiết. Một mặt có thể bảo vệ những lao động chưa đủ 18 tuổi, mặt khác có thể giúp xác định trách nhiệm của người sử dụng lao động cũng như những cơ quan chức năng có thẩm quyền trong việc bảo vệ trẻ em.
2.2.2. Quy định tại Bộ luật Hình sự:
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có sự thay đổi với chế tài nghiêm khắc hơn. Theo đó, người nào sử dụng người dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thì bị phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội với tình tiết tăng nặng bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm (Điều 296 quy định về “Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi”).
Ngoài quy định trên, Bộ luật Hình sự 2015 còn bao gồm một số tội danh khác trừng trị những hành vi liên quan đến một số hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, cụ thể như Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325), Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329); một số hành vi sẽ bị coi là tình tiết tăng nặng nếu phạm tội với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi ví dụ như: Tội cưỡng bức lao động (Điều 297), Tội chứa mại dâm (Điều 327), Tội môi giới mại dâm (Điều 328).
2.2.3. Các văn bản dưới luật:
Để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện những quy định về lao động chưa thành niên và lao động trẻ em trong một số luật nêu trên, Chính phủ đã ban hành một số Thông tư, Nghị định ví dụ như: Thông tư số 10/2013/QĐ-BLĐTBXH ban
hành Danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên và Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ban hành Danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc; Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi tiết một số điều về Luật trẻ em, Nghị định số 144/2013/NĐ- CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Theo Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH, các công việc được sử dụng người lao động dưới 15 tuổi bao gồm:
Các công việc được sử dụng người dưới 13 tuổi làm việc bao gồm: Diễn viên: múa; hát; xiếc; điện ảnh; sân khấu kịch, tuồng, chèo, cải lương, múa rối (trừ múa rối dưới nước); Vận động viên năng khiếu: thể dục dụng cụ, bơi lội, điền kinh (trừ tạ xích), bóng bàn, cầu lông, bóng rổ, bóng ném, bi-a, bóng đá, các môn võ, đá cầu, cầu mây, cờ vua, cờ tướng, bóng chuyền.
Các công việc được sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm việc bao gồm: (1) Những công việc được sử dụng người dưới 13 tuổi làm việc; (2) Các nghề truyền thống: chấm men gốm, cưa vỏ trai, vẽ tranh sơn mài, làm giấy dó, nón lá, se nhang, chẩm nón, dệt chiếu, làm trống, dệt thổ cẩm, làm bún gạo, làm giá đỗ, làm bánh đa (miến), làm bánh đa Kế; (3) Các nghề thủ công mỹ nghệ: thêu ren, mộc mỹ nghệ, làm lược sừng, đan lưới vó, làm tranh Đông Hồ, nặn tò he; (4) Đan lát, làm các đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như: mây, tre, nứa, dừa, chuối, bèo lục bình; (5) Nuôi tằm; (6) Gói kẹo dừa.
Ngoài ra, việc sử dụng lao động trẻ em theo pháp luật Việt Nam ngoài xử phạt hình sự (như Bộ Luật Hình sự đã quy định) thì còn có chế tài xử phạt vi phạm hành chính. Các hành vi vi phạm và chế tài về vấn đề này được quy định trong Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 08 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có một điều
riêng (Điều 19 về vi phạm quy định về lao động chưa thành niên: Trong đó có phạt cảnh cáo đối với người sử dụng lao độnh có hành vi không lập sổ theo dõi khi sử dụng lao động chưa thành niên hoặc không xuất trình sổ theo dõi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu) và Nghị định 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Điều 29 về hành vi của cha, mẹ, người giám hộ, người nuôi dưỡng trẻ em bắt trẻ em làm công việc gia đình quá sức, quá thời gian, ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em và một số Điều khác), quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về bảo vệ chăm sóc trẻ em, trong đó có cấm lạm dụng lao động trẻ em; cấm sử dụng trẻ em để mua, bán, vận chuyển hàng hóa, hàng giả, hàng trốn thuế, tiền tệ trái phép… Ngoài ra còn có Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng người lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm như khách sạn, nhà nghỉ, xoa bóp/ massage, hớt tóc, gội đầu, vận chuyển du lịch…
2.2.4. Một số chương trình, kế hoạch hành động cấp Quốc Gia:
Ngoài những văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở trên, Nhà nước còn lồng ghép vấn đề hạn chế lao động trẻ em vào những chương trình và kế hoạch hành động cấp Quốc gia. Trong số đó phải kể đến như: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em (các giai đoạn 1991-2000, 2000-2010, 2012-2020); Chương trình hành động quốc gia về bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002, Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015; Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020; Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010; Chương trình
phòng, chống mua bán người (các giai đoạn 2011 – 2015, 2016 – 2020); Chiến lược Phát triển Giáo dục 2011-2020…
2.2.5. Giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về lao động trẻ em:
Hoạt động giám sát bao gồm thu thập thông tin, dữ liệu, quản lý thông tin, trao đổi thông tin và sử dụng thông tin để ra quyết định ở các cấp độ khác nhau. Theo Điều 91 và 92 Luật Trẻ em năm 2016, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam có quyền và trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật quyền của trẻ em. Ngoài ra hiện còn có nhiều chủ thể khác tham gia vào hoạt động giám sát lao động trẻ em, trong đó bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan chuyên trách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; HĐND, UBND các cấp; các cơ quan và cán bộ ngành giáo dục; hệ thống các tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA) và hệ thống các tổ chức đại diện cho người lao động; các Ban thanh tra nhân dân (được thành lập ở xã, phường, thị trấn và các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại Điều 12 Luật Thanh tra 2010)
Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra lao động (bao gồm thanh tra về lao động trẻ em) thuộc về thanh tra chuyên ngành, do thanh tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Thanh tra Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và thanh tra của các Sở Lao động-Thương binh và Xã hội cấp tỉnh thực hiện. Trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ, các bộ phận liên quan trực tiếp đến thanh tra về lao động trẻ em là các Phòng Thanh tra chính sách Lao động; Phòng Thanh tra an toàn lao động, vệ sinh lao động và Phòng Thanh tra chính sách về Trẻ em và xã hội.