Kinh tế công nghiệp và quản trị chất lượng - ĐH SPKT Nam Định - 26


nghiệp nhà nước để thu hút thêm vốn đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, phát huy quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn, đổi mới quản lý để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

- Đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý của nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước. Xóa bỏ tình trạng bao cấp, đưa các doanh nghiệp nhà nước đối mặt với thị trường, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Mở rộng quyền chủ động của các doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh, trước hết là trong lĩnh vực kế hoạch hóa, tài chính và lao động, đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm trong quản lý vốn và tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng áp dụng các mô hình quản lý mới vào các doanh nghiệp nhà nước, như mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, mô hình công ty mẹ - công ty con.

- Đẩy mạnh đổi mới nội bộ doanh nghiệp nhà nước với nội dung trọng tâm là xây dựng chiến lược kinh doanh, đổi mới công nghệ, đổi mới các mặt quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

5.5. TỔ CHỨC HỆ THỐNG BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

5.5.1. Một số vấn đề chung

Quản lý ngành công nghiệp phải đảm bảo nhiều mối quan hệ cân đối để dành hiệu quả cao, đạt được mức độ tăng trưởng cao trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong các mối quan hệ cần chú ý đảm bảo:

- Sự cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, bao gồm thị trường nội địa và quốc tế. Việc sản xuất một loại sản phẩm nhất định thường do nhiều doanh nghiệp thực hiện, kể cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, cho nên việc tính và xác lập mối quan hệ này vượt khỏi tầm của từng doanh nghiệp riêng biệt. Để thực hiện việc này cần có một cơ cấu tổ chức thích hợp.

- Sự cân đối giữa khai thác với bảo vệ tài nguyên môi trường. Sự cân đối này được xác lập ở phạm vi toàn quốc và từng vùng lãnh thổ, việc tổ chức cân đối đó lại được thực hiện trong khuôn khổ của một hệ thống mở. Nó bao gồm việc trao đổi sản phẩm giữa các nước, giữa các vùng lãnh thổ của mỗi nước.

5.5.2. Tổ chức bộ máy quản lý theo ngành công nghiệp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Thực tế tổ chức bộ máy ở Việt nam cho thấy một số vấn đề chủ yếu sau:

- Chủ thể quản lý từng ngành công nghiệp cấp I được tổ chức ở cấp trung ương: Phó thủ tướng được Thủ tướng chính phủ uỷ quyền thực hiện chức năng thống nhất quản lý ngành công nghiệp.


Cơ quan trung ương giúp Phó thủ tướng thực hiện chức năng trên. Đó cũng là bộ phận cấu thành của cán bộ quản lý theo lĩnh vực chức năng. Cần phân biệt cơ quan này với văn phòng trực thuộc Phó Thủ tướng.

- Chủ thể quản lý các ngành chuyên môn hoá. Theo Hiến pháp năm 1992, các Bộ trưởng chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước. Cơ quan Bộ là cơ quan chuyên môn giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý ngành ở phạm vi cả nước.

Phạm vi phụ trách của Bộ trưởng thường bao gồm nhiều chuyên ngành cấp II, cấp III. Do đó, cơ quan Bộ phải bao gồm 2 loại là các cơ quan quản lý chức năng (thường là các Vụ) và các cơ quan quản lý chuyên ngành hẹp (thường là các cục)

Do phải đảm bảo mối liên hệ sản xuất nên hình thành một cơ cấu tổ chức sản xuất với nhiều bộ phận thuộc các chuyên ngành hẹp khác nhau. Do đó, trong thực tế những cơ sở sản xuất của một chuyên ngành lại trực thuộc nhiều ngành dọc khác nhau. Đó là những thực tại khách quan làm cho chủ thể quản lý theo chuyên ngành gặp khó khăn trong việc thu thập những thông tin cần thiết để thực hiện chức năng quản lý ngành ở phạm vi toàn quốc.

- Đối tượng quản lý là các doanh nghiệp quy mô khác nhau và thuộc thành phần kinh tế khác nhau. Đây là những tổ chức sản xuất kinh doanh, nên họ không quan tâm đầy đủ tới những yêu cầu chung của ngành và cũng không có thẩm quyền cần thiết để làm việc đó.

5.5.3. Tổ chức bộ máy theo lãnh thổ

Thực tế ở Việt Nam cho thấy việc quản lý công nghiệp theo lãnh thổ được thực hiện qua nhiều việc, trong đó có việc phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của vùng, lãnh thổ. Lãnh thổ của một nước có thể chia theo những tiêu thức khác nhau.

Các vùng lãnh thổ phân theo tiêu thức hành chính có sự đa dạng về tài nguyên, vì thường bao trùm vùng địa lý khác nhau. Ngoài ra vùng này còn có chủ thể quản lý vùng là cơ cấu chính quyền các cấp.

- Chủ thể quản lý vùng lãnh thổ ở phạm vi toàn quốc đối với công nghiệp: Là chức năng của Chính phủ và được phân giao cho Phó thủ tướng phụ trách khối công nghiệp.

Chủ thể quản lý công nghiệp tại vùng lãnh thổ hành chính (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương): là chức năng của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hệ thống công nghiệp của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có chủ thể quản lý tương tự như ở cấp trung ương: Phó chủ tịch phụ trách công nghiệp; các cơ quan chuyên môn giúp việc thực hiện chức năng quản lý ngành công nghiệp. Dưới chủ thể quản lý đó, tại vùng lãnh thổ cấp này còn có giám đốc sở công nghiệp với cơ quan


sở là cơ quan giúp việc, chịu trách nhiệm quản lý những doanh nghiệp công nghiệp không đặt trong các hệ thống quản lý của các ngành khác.

5.5.4. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấu thành bộ máy quản lý nhà nước đối với công nghiệp

Công tác này là một nội dung của công tác tổ chức bộ máy quản lý nói chung, quản lý công nghiệp nói riêng không có con người thì bộ máy không vận hành được.

- Lao động quản lý là một loại lao động xã hội cần thiết để điều hoà, phân phối hoạt động của các cá nhân, tập thể.

- Lao động quản lý nhà nước có những đặc điểm khác lao động quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp:

Để có những quyết định quản lý đúng, kịp thời và đem lại hiệu quả kinh tế cao, các chủ thể quản lý công nghiệp phải có kỹ năng tính toán hiệu quả kinh tế của phương án và lựa chọn phương án và lựa chọn phương án có hiệu quả nhất.

Các quyết định quản lý kinh tế của nhà nước phải xem xét và bảo đảm sự thống nhất lợi ích kinh tế – chính trị của các bộ phận khác nhau của xã hội, cũng như bảo vệ lợi ích của dân tộc.

- Đặc điểm của lao động quản lý đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo bổ sung cho các đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước về quản lý kinh tế nói chung, quản lý công nghiệp nói riêng. Công tác này phải triển khai đồng bộ trên cả hai mặt là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn (nghiệp vụ hành chính và nghiệp vụ về quản lý kinh tế) và phẩm chất của đội ngũ cán bộ (quản lý cần phải quan tâm đúng mức tới quan hệ giữa người sở hữu và người quản lý).



BÀI ĐỌC THÊM

QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP (KCN), KHU CHẾ XUẤT (KCX) VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN

KCN, KCX TRONG TƯƠNG LAI

Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân

Công tác bảo vệ môi trường KCN còn bất cập

Thời gian qua, vấn đề bảo vệ môi trường KCN tuy đã được cải thiện, song vẫn còn tồn tại một số KCN, doanh nghiệp KCN chưa tuân thủ nghiêm túc pháp luật về môi trường. Nguyên nhân là do ý thức của doanh nghiệp thứ cấp, kể cả doanh nghiệp là chủ đầu tư hạ tầng KCN nhiều khi còn chưa cao, vẫn đặt lợi ích kinh tế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trường; công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát bảo vệ môi trường KCN của các cơ quan nhà nước chưa thật chặt chẽ.

Về môi trường nước: Mặc dù số lượng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của các Ban Quản lý các KCN, tại khu vực xung quanh KCN ở một số địa phương, một số tiêu chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là do việc vận hành nhà máy xử lý nước thải chưa tuân thủ theo quy định trong khi công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa có chế tài xử phạt có tính răn đe.

Về môi trường không khí: Chất lượng môi trường không khí tại các KCN, đặc biệt là các KCN được thành lập trên cơ sở các doanh nghiệp cũ có sẵn với công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải, đang bị suy giảm gây ảnh hưởng môi trường xung quanh.

Về chất thải rắn và chất thải nguy hại: một số doanh nghiệp trong KCN không thực hiện đăng ký nguồn thải theo quy định, có doanh nghiệp tự lưu giữ và xử lý chất thải, gây ô nhiễm cục bộ. Tại một số địa phương, còn chưa quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý chất thải nguy hại; chưa có doanh nghiệp thu gom, xử lý chất thải nguy hại cho nên chất thải nguy hại không được quản lý, xử lý theo quy định, nảy sinh nguy cơ về ô nhiễm môi trường.

Vấn đề lao động - việc làm, đời sống công nhân trong KCN, KCX còn nhiều khó khăn

Lương bình quân của người lao động trong các KCN, KKT qua các năm đều được điều chỉnh tăng, nhưng do giá cả các hàng hoá thiết yếu tăng nhanh, làm cho thu nhập thực tế của người lao động trong các KCN nhìn chung vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cuộc sống.


Các chính sách khuyến khích hiện hành đối với đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân (ưu đãi cho các chủ đầu tư xây dựng nhà ở công nhân KCN về miễn, giảm tiền thuê đất, về thuế thu nhập doanh nghiệp...) vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ hấp dẫn các doanh nghiệp, chưa khiến họ quan tâm thỏa đáng đến việc đầu tư xây nhà ở cho người lao động trong KCN. Do vậy, phần lớn công nhân trong các KCN đều phải đi thuê nhà ở do các hộ dân tự xây dựng tự phát, không đầy đủ các tiện nghi, tiện ích cơ bản, ảnh hưởng tới đời sống vật chất và tinh thần người lao động.

Các địa phương hiện nay vẫn chưa chú ý đúng mức đến việc đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi xã hội khác cho người lao động (cơ sở khám chữa bệnh, nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, khu vui chơi giải trí...).

Mâu thuẫn về lương, phụ cấp thêm giờ, bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động nên số lượng các vụ đình công tại các KCN, KCX vẫn diễn ra. Năng lực của các tổ chức công đoàn cơ sở trong thương lượng tập thể còn hạn chế, do thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu kiến thức và kỹ năng đàm phán.

Cơ chế, chính sách đối với KCN, KCX vẫn còn nhiều điểm vướng mắc cần tiếp tục hoàn thiện

Về vấn đề phân cấp, ủy quyền và chức năng, nhiệm vụ của các Ban Quản lý KCN: Việc phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN trong một số lĩnh vực còn chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán trên cả nước do có sự không thống nhất với các quy định của pháp luật chuyên ngành, chưa được các bộ, ngành hướng dẫn cụ thể hoặc chủ trương phân cấp, ủy quyền chưa được địa phương quán triệt và thực hiện, đặc biệt là lĩnh vực thanh tra, môi trường, lao động. Nhiều địa phương đã ban hành Quy chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành của địa phương trong quản lý nhà nước KCN. Tuy nhiên, việc phối hợp giữa Ban Quản lý KCN với các sở, ngành của tỉnh trong thực tế còn chưa hiệu quả, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, môi trường, lao động và đất đai.

Về chính sách ưu đãi đối với KCN: Quy định về ưu đãi đối với các KCN trong pháp luật về thuế hay thay đổi, thiếu ổn định, mức ưu đãi đối với dự án đầu tư vào KCN và dự án mở rộng còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thực sự hấp dẫn, ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn, có uy tín trên thế giới đang có ý định đầu tư, mở rộng sản xuất ở Việt Nam.

Một số địa phương còn chưa thực sự chủ động trong việc kiện toàn, sắp xếp lại bộ máy Ban Quản lý KCN theo hướng thành lập một Ban Quản lý tập trung các KCN, KKT trên địa bàn theo quy định tại Nghị định 29/2008/NĐ-CP. Ngoài ra, quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Ban Quản lý KCN trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước cấp địa phương cũng còn chưa rò ràng, thống nhất.


Các hạn chế nêu trên một phần do nguyên nhân từ trình độ, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong hoạch định và triển khai chính sách còn chưa đồng đều, một phần do nhận thức, quan điểm của các nhà hoạch định chính sách còn chưa thật thống nhất và coi trọng đúng mức vai trò, vị trí của KCN, KCX trong quá trình thực hiện mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) để xây dựng các thể chế, chính sách điều chỉnh hoạt động của KCN, KCX phù hợp với thực tiễn phát triển.

Quan điểm phát triển

- Phát triển KCN, KCX phải tuân thủ quy hoạch được duyệt, đồng thời phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh quy hoạch đảm bảo xác định được định hướng ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực phù hợp với điều kiện thực tế phát triển của địa phương, vùng và phát triển của đất nước từng thời kỳ và xu hướng phát triển của thế giới.

- Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN nòng cốt có vai trò dẫn dắt sự phát triển các ngành công nghiệp quốc gia. Trước mắt, hợp tác với các đối tác chiến lược có trình độ phát triển công nghệ tiên tiến, thí điểm xây dựng một số KCN chuyên sâu để thu hút vốn đầu tư, công nghệ phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn mà Việt Nam có thế mạnh, đặc biệt ưu tiên các ngành công nghệ hỗ trợ. Bên cạnh đó, hình thành hệ thống các KCN có quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển công nghiệp tại khu vực nông thôn, miền núi, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn.

- Từng bước thúc đẩy phát triển các KCN, KCX cân bằng trên các vùng, tránh quá tập trung vào một số vùng, tạo ra sự chênh lệch quá lớn về phát triển, thông qua tác động của chính sách và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng cơ chế, chính sách định hướng thu hút các dự án đầu tư có tính tới yếu tố liên kết ngành trong phát triển các KCN, KCX.

- Thúc đẩy các KCN hiện có phát triển theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghệ cao như thông tin, cơ điện tử, công nghệ sinh học. Đẩy mạnh dịch chuyển từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, củng cố vị trí các sản phẩm quốc gia trên thị trường quốc tế và khu vực.

- Phát triển KCN, KCX đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế hài hòa với các yếu tố xã hội, môi trường hướng tới phát triển bền vững. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN và vận hành KCN, KCX gắn chặt với việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN, KCX; chăm lo điều kiện làm việc, đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động; giám sát chặt chẽ việc thi hành pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp KCN, KCX.



Định hướng phát triển KCN KCX trong giai đoạn tới Để tiếp tục phát huy 1

Định hướng phát triển KCN, KCX trong giai đoạn tới

Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những khó khăn vướng mắc, cản trở đối với sự phát triển của các KCN, trong thời gian tới, các KCN cần xây dựng và phát triển theo một số định hướng cơ bản sau:

Nâng cao chất lượng quy hoạch KCN

- Xây dựng, triển khai quy hoạch KCN gắn với thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch ngành.

- Quy hoạch tổng thể KCX, KCN cần tính toán tiềm năng, lợi thế quốc gia, vừa đánh giá đúng tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, từng ngành để tạo ra một sự liên kết chặt chẽ đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của KCN trên cấp độ địa phương và quốc gia.

- Phát triển về số lượng và quy mô KCN cần phù hợp và hài hoà với điều kiện phát triển thực tế của địa phương, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất KCN, kiên quyết không phát triển KCN trên đất nông nghiệp có năng suất ổn định.

Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN

- Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCN theo hướng xây dựng một cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với hệ thống tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN; gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào vào ngoài hàng rào KCN, hướng tới hình thành nhiều KCN có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực.

- Huy động các nguồn vốn để đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động và các công trình tiện nghi, tiện ích cho KCN; điều chỉnh, bổ sung cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và phát huy tính chủ động của địa phương trong việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội phục vụ cho phát triển kết cấu hạ tầng KCN.

Cải thiện chất lượng thu hút đầu tư vào KCN

- Tập trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ tiên tiến, thâm dụng vốn, thân thiện với môi trường, các ngành nghề xác định là mũi nhọn phát triển và có lợi thế của Việt Nam. Tăng cường tính liên kết ngành trong phát


triển KCN để hình thành các KCN liên kết ngành (clusters) nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của KCN và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, dần hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp trong tổng giá trị gia tăng của địa phương.

- Xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến đầu tư thống nhất trên phạm vi cả nước, tập trung xúc tiến đầu tư theo vùng để tăng cường hiệu quả, tránh chồng chéo. Thực hiện xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung ưu tiên một số đối tác lớn, quan trọng và những ngành nghề, lĩnh vực lợi thế của Việt Nam.

Kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường

- Tăng cường giám sát, thanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về môi trường trong các KCN gắn với việc xử lý vi phạm một cách kiên quyết, dứt điểm; đồng thời xem xét điều chỉnh các chế tài để đảm bảo tính răn đe đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.

- Nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật về môi trường cho các cơ quan liên quan đến KCN (Ban Quản lý các KCN, Sở Tài nguyên và Môi trường, Cảnh sát môi trường) để tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý có đầy đủ nguồn lực thực hiện nhiệm vụ về bảo vệ môi trường KCN.

Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động

- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm cải thiện điều kiện lao động, hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong KCN phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.

- Chú trọng, đào tạo nghề cho thanh niên khu vực nông thôn, nhất là các vùng nông thôn bị thu hồi đất làm KCN; xây dựng chiến lược tổng thế quốc gia về phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa; xây dựng đội ngũ lao động có tác phong công nghiệp, có trình độ, kỹ năng, kỷ luật lao động ngày càng được nâng cao.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN

Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách hiện hành về KCN, KKT theo hướng tăng cường phân cấp, ủy quyền từ Trung ương tới địa phương, gắn chặt với cơ chế phân công trách nhiệm và phối hợp rò ràng, minh bạch giữa các cơ quan Trung ương và địa phương; có cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra thường xuyên với các chế tài xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm.

Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương đảm bảo đủ thẩm quyền và nguồn lực để quản lý các KCN, KCX theo hướng một cửa, một đầu mối và tương xứng với vai trò vị trí ngày càng quan trọng của các KCN, KCX trong quá trình CNH, HĐH.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí