Thứ hai, tiếp cận quá trình hoạt động. Quản lý kinh tế là một quá trình bao gồm nhiều công việc khác nhau về nội dung nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các công việc được tổng hợp theo sơ đồ 5.1:
Sơ đồ 5.1. Quy trình quản lý kinh tế
Quá trình xây dựng mục tiêu
Quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu
Quá trình kiểm tra, kiểm soát
Xác định mục tiêu là bước công việc đầu tiên và là cơ sở của các bước công việc tiếp theo. Trong thực tế, bước công việc này được thể hiện thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển. Tổ chức thực hiện mục tiêu được tiến hành trên cơ sở mục tiêu đã được xác định. Trong thực tế khâu công việc này được thực hiện thông qua các hoạt động tổ chức hệ thống sản xuất, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy quản lý và cơ chế vận hành hệ thống. Kiểm tra, một mặt là bước công việc cuối của quá trình quản lý, mặt khác là loại công việc nằm ngay trong các bước công việc trước đó, có nhiệm vụ xác định những sai lệch và đề xuất các biện pháp điều chỉnh nhằm là hệ thống quản lý đạt được mục tiêu đã định.
Cách tiếp cận này cho phép xác định được các nội dung quản lý cần phải thực hiện và tổ chức mối quan hệ giữa các nội dung ấy.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảng So Sánh Sự Sửa Đổi Và Bổ Sung Của Bộ Tiêu Chuẩn Iso
- Các Bước Triển Khai Thực Hiện Tqm Tại Doanh Nghiệp
- Lựa Chọn Cách Thức Quản Lý Chất Lượng Thích Hợp
- Chức Năng Tạo Môi Trường Phát Triển Công Nghiệp
- Kinh tế công nghiệp và quản trị chất lượng - ĐH SPKT Nam Định - 25
- Kinh tế công nghiệp và quản trị chất lượng - ĐH SPKT Nam Định - 26
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
Thứ ba, quản lý kinh tế được tiếp cận theo phương pháp hệ thống. Hệ thống quản lý kinh tế bao gồm ba bộ phận cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau: hệ thống đối tượng quản lý, hệ thống chủ thể quản lý, hệ thống thông tin.
Hệ thống chủ thể quản lý
Hệ thống chủ thể quản lý
Thông tin từ môi trường
Thông tin ngược
Thông tin xuôi
Thông tin từ môi trường
Sơ đồ 5.2. Các bộ phận cấu thành hệ thống quản lý
Hệ thống chủ thể quản lý là tập hợp các bộ phận có nhiệm vụ ra các quyết định quản lý, tổ chức vận hành hệ thống quản lý. Hệ thống đối tượng quản lý là tập hợp các bộ phận có nhiệm vụ thực hiện các quyết định quản lý. Hệ thống thông tin gồm: thông tin từ chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý (thông tin xuôi), thông tin từ đối tượng quản lý đến chủ thể quản lý (thông tin ngược), thông tin từ môi trường để chủ thể quản lý và đối tượng quản lý (sơ đồ 5.2).
5.1.2. Đặc trưng của quản lý nhà nước với công nghiệp
Có thể xem xét đặc trưng của quản lý nhà nước với công nghiệp trên 2 góc độ: từ những đặc trưng của công nghiệp với tư cách đối tượng quản lý của nhà nước; từ sự khác biệt so với quản lý sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp.
Xét trên góc độ thứ nhất, công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: khai thác, chế biến và các dịch vụ công nghiệp, chủ yếu là dịch vụ sửa chữa một số tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Do những đặc trưng riêng có về kỹ thuật sản xuất, khả năng tự đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, trình độ phân công xã hội ngày càng sâu sắc, trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, hệ thống công nghiệp ngày càng được phát triển chuyên môn hóa theo ngành kinh tế - kỹ thuật. Sự phân hóa hệ thống đối tượng quản lý theo các chuyên ngành hẹp đòi hỏi hệ thống chủ thể quản lý cũng phải có sự thay đổi - phát triển quản lý theo ngành kinh tế - kỹ thuật dưới những hình thức thích hợp. Mặt khác, trong hệ thống công nghiệp cũng đồng thời diễn ra quá trình liên kết phối hợp giữa các chuyên ngành và quá trình đa dạng hóa kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp công nghiệp. Xu thế đòi hỏi hệ thống chủ thể phải phát huy vai trò của “người nhạc trưởng” để thúc đẩy hình thành các quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật và các thành phần kinh tế khác nhau. Cũng theo xu thế này, quản lý nhà nước với hệ thống công nghiệp ngày nay không phải chỉ là quản lý quá trình sản xuất sản phẩm mà còn phải là quản lý tổng thể các khâu công việc của quá trình tái sản xuất mở rộng, từ nghiên cứu khoa học công nghệ, thiết kế, chế thử sản phẩm và sản xuất sản phẩm, đến thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm và thực hiện các dịch vụ khách hàng.
Xét trên góc độ thứ hai, quản lý của nhà nước với công nghiệp và quản lý sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đều nằm trong quản lý hệ thống công nghiệp nhưng được xem xét ở các cấp khác nhau. Giữa chúng có sự khác biệt cơ bản về phạm vi đối tượng quản lý, chủ thể quản lý, mục tiêu quản lý và phương thức, biện pháp, công cụ quản lý.
- Sự khác biệt về phạm vi đối tượng quản lý. Nếu phạm vi đối tượng quản lý của quản lý sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là các yếu tố, các quá trình sản xuất trong doanh nghiệp và mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài, thì
phạm vi đối tượng quản lý của quản lý nhà nước với công nghiệp là toàn bộ hệ thống công nghiệp với các bộ phận khác nhau hợp thành từ các phân hệ (ngành công nghiệp chuyên môn hóa tổng hợp, ngành công nghiệp chuyên môn hóa hẹp) và các tế bào cơ bản (các doanh nghiệp công nghiệp) được phân bố rộng trên khắp các vùng lãnh thổ của đất nước. Các ngành và doanh nghiệp ấy không chỉ có quan hệ với nhau mà còn có quan hệ với các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Do phạm vi đối tượng quản lý rộng như vậy, nên nội dung quản lý nhà nước với công nghiệp có độ phức tạp cao hơn nhiều so với quản lý sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp.
- Sự khác biệt về chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là giám đốc và bộ máy tham mưu giúp việc. Suy đến cùng, trách nhiệm của chủ thể này là tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp phát triển thích ứng với môi trường kinh doanh. Chủ thể quản lý của quản lý nhà nước với công nghiệp là hệ thống các cơ quan quản lý có sự phân công và phối hợp chặt chẽ với nhau được tổ chức theo các cấp khác nhau. Hệ thống này,trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phải thực hiện những chức năng chủ yếu là: định hướng phát triển toàn bộ hệ thống công nghiệp; tạo môi trường thuận lợi, ổn định và bình đẳng để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển hệ thống công nghiệp; tổ chức điều hòa mối quan hệ giữa các ngành kinh tế, các ngành và các doanh nghiệp công nghiệp, kiểm tra kiểm soát các hoạt động của các chủ thể kinh tế công nghiệp.
Với những chức năng đó, cơ cấu tổ chức và nội dung hoạt động của chủ thể quản lý nhà nước với công nghiệp phức tạp hơn nhiều so với quản lý doanh nghiệp công nghiệp.
- Sự khác biệt về mục tiêu quản lý. Tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải thực hiện một hệ thống bao gồm nhiều mục tiêu khác nhau. Nhưng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, mục tiêu trực tiếp và bao trùm của quản lý doanh nghiệp là thu lợi nhuận cao. Bởi lẽ,đó là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp công nghiệp trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường. Trong khi đó với vai trò là “người nhạc trưởng”, quản lý nhà nước với công nghiệp phải thực hiện đa mục tiêu, trong đó, các mục tiêu cụ thể có quan hệ ràng buộc, ước định nhau. Xét một cách tổng quan, quản lý nhà nước với công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường phải hướng tới những mục tiêu cơ bản là “tăng trưởng, hiệu quả, ổn định và công bằng”. Điều cần nhấn mạnh là các mục tiêu đó không chỉ bao hàm nội dung kinh tế mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và môi trường sinh thái.
Với ý nghĩa đó, mục tiêu quản lý của quản lý nhà nước với công nghiệp phức tạp hơn nhiều so với mục tiêu của quản lý doanh nghiệp. Hơn nữa, mục tiêu này còn chi
phối mục tiêu hoạt động cụ thể của quản lý doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh.
- Về phương thức và biện pháp công cụ quản lý. Cả quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý nhà nước với công nghiệp đều phải ứng dụng tổng hợp phương pháp hành chính - tổ chức, phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục, song do phạm vi và tính chất của đối tượng quản lý khác nhau, nên phương thức vận dụng cụ thể của các phương pháp này trong quản lý nhà nước và quản lý trong sản xuất kinh doanh bị chi phối bởi nhiều điểm khác biệt căn bản. Trong khi quản lý sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp thường chủ yếu sử dụng các phương pháp tác động trực tiếp, thì quản lý nhà nước lại chủ yếu sử dụng các tác động gián tiếp. Hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật được coi là công cụ chủ yếu của nhà nước trong quản lý vĩ mô với công nghiệp.
5.2. YÊU CẦU CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI CÔNG NGHIỆP.
5.2.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước với công nghiệp
Ngày nay, quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, trong đó có quản lý nhà nước với công nghiệp, đã được khẳng định là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Tính tất yếu đó được giải thích bởi những lý do chủ yếu sau đây:
- Sự tác động của cơ chế thị trường tới các mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước là tác động có tính chất trực tiếp. Một mặt, cơ chế thị trường có những tác động tích cực với các hoạt động kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế trở nên năng động hơn, đòi hỏi các nhà quản lý phải đặc biệt quan tâm đến nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động, cải thiện khả năng cạnh tranh ở cả cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế. Mặt khác,cơ chế thị trường cũng gây ra nhiều tác động đến các hoạt động kinh tế. Do chạy theo lợi nhuận, cá biệt các nhà quản lý doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thường ít quan tâm đến lợi ích chung có tính chất xã hội, không những thế, trong nhiều trường hợp, họ không từ thủ đoạn nào, kể cả vi phạm pháp luật nhà nước, hối lộ quan chức nhà nước, để thu lợi nhuận cao. Sự phát triển cơ chế thị trường cũng dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo, không quan tâm đến bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Trong điều kiện đó, sự can thiệp hợp lý của nhà nước vào đời sống kinh tế của đất nước được coi là cần thiết nhằm phát huy tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Trên thế giới ngày nay,cơ chế kinh tế mà phần lớn các nước theo đuổi là cơ chế hỗn hợp, trong đó, nền kinh tế vừa chịu sự điều tiết của nhà nước “bàn tay hữu hình”, vừa chịu sự điều tiết của thị trường “bàn tay vô hình”.
- Trình độ xã hội hóa của nền sản xuất xã hội ngày càng được nâng cao, các mối quan hệ trong sản xuất giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành và giữa các vùng trở
nên ngày càng phức tạp do tác động của sự phát triển ngày càng sâu rộng của phân công lao động xã hội và của khoa học công nghệ. Để đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra đều đặn, nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải có bộ phận đứng ra làm chức năng định hướng phát triển đầu tư và kinh doanh của các chủ thể kinh tế,phối hợp điều hòa hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, các vùng lãnh thổ hướng theo mục tiêu chung của đất nước. Nhà nước, với vai trò như của “người nhạc trưởng”sẽ thực hiện những chức năng này. Thiếu sự điều khiển của nhà nước, hoặc nhà nước hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự đình trệ, thậm chí rối loạn hoạt động của hệ thống kinh tế quốc gia. Ngày nay, khi toàn cầu hóa đã thực sự trở thành một xu thế có tính khách quan, sự phối hợp giữa các chủ thể kinh tế đã vượt qua khuôn khổ không gian lãnh thổ của từng nước, được thực hiện ở phạm vi khu vực và phạm vi toàn cầu, tuy rằng quyền chủ động của các doanh nghiệp được đề cao, nhưng vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Chính sự phối hợp giữa các nhà nước sẽ tạo nền tảng về pháp lý và kinh tế cho sự phối hợp giữa các doanh nghiệp của các nước.
- Mỗi doanh nghiệp là một cơ thể sống tồn tại và phát triển trong môi trường nhất định. Doanh nghiệp luôn mong muốn có môi trường thuận lợi, ổn định và minh bạch để tổ chức có hiệu quả các hoạt động của mình nhưng doanh nghiệp lại không thể tạo ra được môi trường mà phải tìm cách thích ứng với các điều kiện của môi trường. Trong các yếu tố của môi trường, có nhiều yếu tố lại là sản phẩm chủ quan của nhà nước, như nhiều yếu tố của môi trường thể chế,môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị - văn hóa-xã hội. Từ đó có thể thấy rằng việc thực hiện hợp lý vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế lại xuất phát từ chính yêu cầu của các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Ngoài những lý do cơ bản trên đây, sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước với công nghiệp còn được thể hiện ở một số lý do sau đây:
- Công nghiệp là ngành kinh tế có quy mô lớn, phạm vi rộng, trình độ kỹ thuật cao, mối liên hệ sản xuất nội bộ công nghiệp và giữa công nghiệp với các ngành kinh tế khác hết sức phức tạp. Vì vậy đòi hỏi phải có quản lí của nhà nước để quá trình sản xuất diễn ra nhịp nhàng, cân đối, có hiệu quả và phục vụ trực tiếp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
- Sản xuất hàng hóa trong công nghiệp phát triển ở trình độ cao, cơ chế thị trường tác động mạnh đến quá trình phát triển công nghiệp và qua công nghiệp tác động đến phát triển sản xuất hàng hóa của tất cả các ngành kinh tế. Trong điều kiện đó, sự can thiệp của nhà nước để điều chỉnh sự tác động của cơ chế thị trường đến phát triển công nghiệp, phát huy những mặt tích cực và ngăn ngừa những tác động tiêu cực của cơ chế này.
- Công nghiệp là ngành kinh tế giữ vai trò trọng yếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của những nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát huy vai trò quản lý của Nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng để phát huy vai trò của công nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển, bảo đảm sự gắn bó và có hiệu quả giữa sự phát triển công nghiệp với sự phát triển ngành kinh tế khác, giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
5.2.2. Yêu cầu của quản lý nhà nước với công nghiệp
- Bảo đảm hệ thống công nghiệp phát triển phù hợp với các quy luật khách quan
Hoạt động của bất kì chủ thể nào đều phải tuân thủ theo các quy luật khách quan và tính hiệu quả trong hoạt động của chủ thể đó phụ thuộc vào việc vận dụng các quy luật khách quan vào điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn của quá trình phát triển. Công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của công nghiệp tuân theo các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật của kinh tế thị trường. Trong khi đó, hoạt động của Nhà nước là hoạt động chủ quan của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế và đội ngũ công chức trong các cơ quan ấy. Nếu hoạt động của các bộ phận ấy mang tính duy ý chí, bất chấp các quy luật khách quan, thì hệ thống công nghiệp không thể phát triển có hiệu quả được, trong một số trường hợp còn gây nên những cản chở cho sự phát triển bình thường, thậm chí kéo lùi sự phát triển của hệ thống công nghiệp.
Để bảo đảm yêu cầu này, đội ngũ cán bộ ở các cơ quan quản lý nhà nước phải có trình độ nhận thức được các quy luật khách quan và khả năng vận dụng chúng vào việc xây dựng, thực thi hệ thống pháp luật và chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn. Đồng thời, đội ngũ này phải có khả năng tổng kết thực tiễn, rút ra từ hoạt động thực tiễn những bài học kinh nghiệm cần thiết để điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và chính sách phát triển công nghiệp.
- Huy động được các nguồn lực vào phát triển công nghiệp
Việc xây dựng và phát triển công nghiệp luôn đòi hỏi những nguồn lực hết sức to lớn. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam trước đây, Nhà nức sử dụng các nguồn lực của mình và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em để xây dựng và phát triển công nghiệp. Do các nguồn lực này bị giới hạn về lượng, nên sự phát triển công nghiệp còn nhiều hạn chế. Quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta cũng đồng thời là quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Theo đó, một trong những yêu cầu hàng đầu với quản lý nhà nước với công nghiệp là phải tạo ra được môi trường thông thoáng, ổn định, bình đẳng và minh bạch để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp. Đó là nhiệm vụ hết sức khó khăn và phức tạp,
nhưng huy động được các nguồn lực mới chỉ là điều kiện cần cho sự phát triển công nghiệp, điều kiện đủ là phân bố hợp lý và quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn lực ấy. Để đảm bảo yêu cầu này, đòi hỏi phải giải quyết hợp lý quan hệ Nhà nước – doanh nghiệp – thị trường: Nhà nước định hướng phát triển công nghiệp và tạo môi trường để thu hút các nguồn lực đầu tư; trên cơ sở định hướng đó và kết quả phân tích môi trường, các nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đầu tư cho mình; Nhà nước và các nhà đầu tư đều phải phân tích các quan hệ thị trường trong việc đưa ra định hướng phát triển và quyết định đầu tư.
- Bảo đảm kết hợp hợp lý ích lợi của Nhà nước, lợi ích của các nhà kinh doanh và lợi ích của người lao động trong phát triển công nghiệp.
Xét tổng thể trong dài hạn, lợi ích của Nhà nước (đại diện cho lợi ích của toàn xã hội), lợi ích của các nhà kinh doanh và lợi ích của người lao động là thống nhất với nhau. Nhưng nếu xét trong ngắn hạn và với những trường hợp cụ thể, các loại lợi ích ấy có sự mâu thuẫn với nhau: với tổng sản phẩm thặng dư được tạo ra trong một thời gian, nếu bộ này nhận được phần lớn, thì các bộ phận khác sẽ nhận được phần nhỏ, và ngược lại. Trong hoạt động quản lý của mình, một mặt, Nhà nước phải tạo ra nhưng điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, trên cơ sở đó tăng tổng lượng sản phẩm có thể phân phối cho các bộ phận khác có liên quan; mặt khác, có chính sách phân phối hợp lý để tạo ra động lực vừa kích thích các nhà đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh, tiết kiệm chi phí và tăng sản phẩm thặng dư, vừa kích thích người lao động hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao động. Việc bảo đảm lợi ích của Nhà nước, suy đến cùng cũng là để đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư và của cá nhân mỗi người lao động, vì chính sự đóng góp của các doanh nghiệp và mỗi công nhân vào ngân sách sẽ tạo điều kiện tài chính để Nhà nước tăng chi phí đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng thêm phúc lợi cho người lao động. Theo đuổi cơ chế kinh tế thị trường cũng có nghĩa là chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Nhưng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn sẽ dẫn đến những bất ổn về mặt xã hội. Trong điều kiện này, để ổn đinh xã hội và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế , Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ người nghèo, phát huy trách nhiệm của cộng đồng trong việc giúp những người có hoàn cảnh khó khăn và chịu thiệt thòi trong xã hội.
- Bảo đảm cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được hoạt động trong môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tồn tại các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau, các doanh nghiệp ấy tồn tại và phát triển trong quan hệ vừa cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau. Sự phân biệt đối xử của Nhà nước theo hướng dành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước, hành xử một cách khắt khe
với các doanh nghiệp ngoài nhà nước là hoàn toàn trái với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, chắc chắn sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phát triển đầu tư và kinh doanh của các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Điều này, đến lượt mình, sẽ gây khó khăn cho chính Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vậy, thực hiện quản lý hệ thống công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường, việc tạo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp được coi là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của quản lý nhà nước với công nghiệp.
5.3. NỘI DUNG CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
Có thể tiếp cận các chức năng quản lý nhà nước với công nghiệp theo những cách khác nhau. Nếu xét quản lý nhà nước với công nghiệp như một quá trình bao gồm những khâu công việc khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau, thì nội dung quản lý nhà nước công nghiệp bao gồm bốn chức năng cơ bản: định hướng; tạo môi trường ; tổ chức điều hòa và phối hợp; kiểm tra, kiểm soát. Nếu xét theo nội dung các công việc quản lý được chuyên môn hóa do chủ thể quản lý thực hiện, quản lý nhà nước với công nghiệp gồm 5 chức năng cơ bản: quản lý kế hoạch; quản lý tài chính; quản lý vật tư; quản lý lao động; quản lý kỹ thuật.
Trong phần này sẽ đề cập nội dung các chức năng quản lý của quản lý nhà nước với công nghiệp theo quá trình.
5.3.1. Chức năng định hướng phát triển công nghiệp
Hệ thống công nghiệp được cấu thành bởi các doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp công nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có những mục tiêu cụ thể riêng. Mục tiêu ấy phụ thuộc trực tiếp vào ý chí của chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhưng nói chung, khi hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, mục tiêu trực tiếp và cuối cùng của các chủ sở hữu là tối đa hóa lợi nhuận. Để huy động sự nỗ lực của các doanh nghiệp vào việc thực hiện mục tiêu của họ nhưng góp phần tích cực nhất vào việc thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ hệ thống công nghiệp, Nhà nước phải thực hiện chức năng định hướng hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vai trò định hướng này không chỉ giúp cho Nhà nước thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế, mà còn trợ giúp cho các chủ đầu tư hạn chế được rủi ro khi đưa ra quyết định và thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở hoạc định được chiến lược kinh doanh phù hợp với định hướng chiến lược phát triển chung của hệ thống công nghiệp.