Thành Phần, Đối Tượng, Mô Hình Kết Nối Của Hệ Thống M-Learning



22


Khai thác công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động tự học độc lập của HS.

Đây là hình thức HS tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có sự hướng dẫn của GV. Hình thức này gần với việc tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình tự học này đi đến sự sáng tạo và tri thức khoa học mới (đối với HS tại thời điểm đó), dạng tự học này đòi hỏi HS có một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu.

Ta sẽ phân tích rõ vai trò của CNTT&TT trong hình thức tự học này.

- CNTT&TT làm nảy sinh động cơ tự học của HS: Internet sẽ đưa HS vào siêu xa lộ thông tin, trong vô vàn vấn đề sẽ có những vấn đề gây được sự chú ý của HS, hoặc khi HS truy cập các diễn đàn, sẽ đọc được những thắc mắc, những kết quả của các HS khác đưa lên diễn đàn… dẫn đến việc nảy sinh động cơ muốn tìm hiểu, làm sáng tỏ vấn đề.

- CNTT&TT cung cấp các thông tin để giúp HS rút ra kết luận cho bản thân mình: Đứng trước một vấn đề, HS hoàn toàn tìm được các thông tin liên quan. Việc nghiên cứu các thông tin này sẽ từng bước giúp HS tích lũy kiến thức và giải quyết thỏa đáng nhiệm vụ tự học mà HS đã tự đặt ra cho mình.

- CNTT&TT giúp HS chia sẻ, kiểm chứng kết quả tự học của mình: Trước hết trong quá trình tìm tòi, khám phá kiến thức, HS có thể đưa vấn đề mình đang nghiên cứu lên các diễn đàn để chia sẻ và nhận được các thông tin hỗ trợ từ các HS khác. Tiếp theo HS đưa kết quả, nhận định của mình lên diễn đàn để nhờ mọi người cùng kiểm chứng. Trong hình thức tự học này, nguồn tri thức nhân loại trên Internet chính là người GV “ảo” hướng dẫn HS tự học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

Với sự hỗ trợ của CNTT&TT, các hình thức tự học truyền thống có yếu tố mới:

- Bổ sung thêm đối tượng GV “ảo”. Mặc dù CNTT&TT không thể thay thế vai trò người GV nhưng nó cũng có thể đảm nhiệm vai trò người GV tại một số thời điểm để cùng hỗ trợ, kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của HS.



23


- Mở rộng phạm vi lớp học. Bên cạnh các lớp truyền thống sẽ có các lớp học “ảo” với quy mô HS không hạn chế.

- Mở rộng khái niệm trực tiếp từ “mặt đối mặt trên lớp học” thành GV và HS tương tác với nhau trên lớp lớp học truyền thống hoặc trên các lớp học ảo qua mạng Internet.

Theo chúng tôi, các yếu tố trên đều là các yếu tố có tác động tích cực đến quá trình tự học của HS nếu chúng ta biết khai thác chúng hợp lý và chú trọng bồi dưỡng cho HS các khả năng sau:

(1) Chủ động, độc lập trong việc xác định mục đích, chương trình, nội dung tự học;

(2) Nắm được phương pháp tìm kiếm tư liệu, tương tác với GV, tương tác với bạn bè, tự đánh giá... trong môi trường CNTT&TT

(3) Biết tận dụng các cơ hội việc tự học có thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi và tận dụng tối đa khả năng hỗ trợ của CNTT&TT để tiếp cận với nguồn HLĐT và tương tác với GV, bạn bè...

1.4. Tổng quan về học tập di động

1.4.1. Khái niệm học tập di động (M-learning)

Hiện nay trên thế giới có nhiều quan niệm về học tập di động (M- learning) nhưng tập trung theo hai xu hướng chính:

(i). Xu hướng gắn M-learning với việc sử dụng các thiết bị công nghệ: Các quan niệm theo hướng này coi M-learning là việc học tập với sự giúp đỡ của các thiết bị di động. Theo xu hướng này có các chuyên gia như Quinn, Sariola, Traxler [66]. Theo chúng tôi, quan niệm này chưa thể hiện rõ được yếu tố học mọi lúc, mọi nơi của UNESCO đề xuất cho mô hình giáo dục thế kỷ XXI.

(ii) Xu hướng gắn M-learning với tính di động của người học: Theo xu hướng này, M trong thuật ngữ M-learning có thể hiểu là “MY”, nghĩa là “chính bản thân người học”. Việc học tập diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Vậy, M- learning nghĩa là hình thức cung cấp dịch vụ học tập cho đối tượng HS di



24


động. Theo xu hướng này, phải kể đến các chuyên gia như Oloruntoba [45], Rebecca-rjhogue [58]… Theo chúng tôi, quan niệm trên sẽ không đầy đủ vì chỉ quan tâm đến tính di động của người học. Chúng ta đều biết, nếu vắng mặt các thiết bị di động thì người học vẫn không thể thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào địa điểm và thời gian tổ chức lớp học nên không thể “di chuyển” theo đúng nghĩa của nó. Mặt khác, người học khi tham gia M-learning không nhất thiết cứ phải di chuyển về địa lý.

Một trong những điểm chưa tường minh trong hai xu hướng trên đó là vai trò của công nghệ mà chủ yếu là công nghệ mạng không dây.

Trên cơ sở phân tích các mô hình, dự án về M-learning trên thế giới, chúng tôi cho rằng các yếu tố: Công nghệ mạng, thiết bị di động và khả năng chủ động của người học là không thể tách rời trong bởi các lý do sau:

(1) Về công nghệ mạng:

Sự phát triển của công nghệ không dây như wifi, wimax, bluetooth... và các hệ thống kết nối viễn thông không dây toàn cầu như: Hệ thống định vị toàn cầu GPS; hệ thống truyền thông toàn cầu GSM; dịch vụ radio theo gói GPRS; thế hệ mạng 3G và 4G; công nghệ đa truy cập CDMA… cùng hệ thống các vệ tinh thu phát sóng trên khắp thế giới đã mang lại nhiều đột phá mang tính cách mạng trong nhiều lĩnh vực của khoa học công nghệ và đời sống, trong xu hướng này, giáo dục đào tạo không thể là một trường hợp ngoại lệ. Vậy, công nghệ mạng không dây là nhân tố đảm bảo sự kết nối của người học với GV, lớp học và nguồn học liệu được thực hiện mọi nơi.

(2) Về thiết bị di động:

Để việc học được đảm bảo diễn ra mọi lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào không gian, thời gian, địa điểm đặt lớp học thì người học phải sử dụng các các thiết bị di động cá nhân. Các thiết bị di động cá nhân này là tác nhân chính đảm bảo cho việc cá nhân hóa cao trong học tập và đảm bảo, đáp ứng nhu cầu học mọi lúc, mọi nơi của người học.



25


Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung chủ yếu vào việc người học sử dụng điện thoại thông minh smartphone bởi chúng gọn nhẹ, dễ sử dụng, tương tác tốt, có thể sử dụng bất cứ lúc nào, có giá thành hợp lý và đang trở thành phổ biến ở Việt Nam (phụ lục 13).

(3) Về khả năng chủ động của người học

Tính chủ động của người học được thể hiện theo hai góc độ. Thứ nhất là người học hoàn toàn có thể học trong quá trình di chuyển. Thứ hai người học hoàn toàn chủ động về thời gian, nội dung, thời lượng học tập.

Như vậy, ta có thể hiểu M-learning là bước chuyển tiếp của E-learning. M-learning tập trung vào khai thác tính chủ động của người học và khả năng tương tác với tài nguyên học tập nhờ công nghệ di động và các thiết bị di động. Đây là một hình thức học tập mà bản thân người học có thể thực hiện được việc học tập ở mọi lúc, mọi nơi nhờ sự hỗ trợ của các thiết bị di động như ĐTDĐ, máy tính bảng... Thậm chí có thể tiến hành một số hoạt động học tập ngay cả khi không có kết nối wifi hay 3G nhờ khả năng lưu trữ thông tin của các thiết bị di động này và các dịch vụ của nhà cung cấp mạng di động.

Theo cách tiếp cận này, chúng tôi cho rằng M-learning chỉ việc học tập, đào tạo mà việc quản lý, chia sẻ các nội dung và sự tương tác được thực hiện nhờ việc sử dụng các thiết bị di động trên nền công nghệ mạng không dây.

1.4.2. Thành phần, đối tượng, mô hình kết nối của hệ thống M-learning

Các thành phần chính của hệ thống M-learning bao gồm hệ thống quản lý học tập và hệ thống quản lý nội dung học tập (sơ đồ 1.1).

Trong đó:

Hệ thống quản lý học tập (LMS) cung cấp các dịch vụ quản lý các quá trình học tập như phân phối và tìm kiếm nội dung học tập cho người học…

Hệ thống quản lý nội dung học tập (LCMS) có chức năng quản lý cho phép tạo mới, lưu trữ, sử dụng lại cũng như quản lý, phân phối nội dung học tập.



26


Chuyên gia

Chuyên gia

LCMS từ xa

Giảng viên

LMS

từ xa

Hệ thống quản trị học LMS


Công cụ cho giảng viên

Quản lý nội dung học

Quản lý khóa

học

Quản lý hồ

sơ người học Thông tin về người học

Hệ thống quản trị nội dung LCMS

Ngân hàng nội dung

Mạng di động

Công cụ truy cập

Dịch vụ từ xa

Dịch vụ từ xa

Công cụ thiết kế nội dung

Công cụ tích hợp nội dung

Công cụ truy cập

Người học Người học


Sơ đồ 1.1: Minh họa thành phần của một hệ thống M-learning


Các đối tượng tham gia hệ thống M-learning bao gồm:

Quản trị hệ thống: Là người có trách nhiệm quản trị hệ thống phần cứng, phần mềm và các đối tượng sử dụng các dịch vụ của hệ thống (GV, HS).

Giáo viên: Là những người đảm nhận nhiệm vụ hướng dẫn, tổ chức cho HS tham gia các hoạt động học tập, hỗ trợ trực tuyến hoặc gián tiếp trong suốt quá trình học tập của HS và tổ chức kiểm tra, đánh giá hiệu quả học tập của HS. Đội ngũ GV không chỉ bao gồm các GV đang trực tiếp tham gia vào các hoạt động giới thiệu nội dung, định hướng trao đổi, giải đáp các thắc mắc của người học mà còn các GV khác đang đóng vai trò cố vấn, nghiên cứu lý luận, PPDH, lập chương trình đào tạo, thiết kế nội dung học liệu, kiểm tra đánh giá.

Như vậy tại mỗi thời điểm, mỗi HS có thể được nhiều hơn một GV hỗ trợ.



27


Giảng viên

Mạng di động

Hệ thống quản trị học LMS

Người học: Là đối tượng được phép khai thác các dịch vụ mà hệ thống cho phép và sự trợ giúp, hướng dẫn của GV để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Như vậy, người học không bó hẹp là những người đang “có mặt” trong một lớp học cụ thể, mà là những người đang “đăng nhập hệ thống” và chia sẻ về nội dung một chủ đề nào đó hoặc cùng tham gia các hoạt động học tập với những bạn học khác theo gợi ý của GV. Mặt khác, các bạn học “cùng lớp” này có thể khác biệt về tuổi tác, dân tộc…(sơ đồ 1.2)




Học sinh


Công chức


Nghiên cứu viên


Web


Máy tính bảng


TV


Các phương tiện giao tiếp

Chuyên viên CNTT


Đơn vị, tổ chức


Sơ đồ 1.2: Minh họa các đối tượng của một hệ thống M-learning

Mô hình kết nối hạ tầng trong M-learning (sơ đồ 1.3).


Sơ đồ 1 3 Minh họa mô hình kết nối hạ tầng M learing 28 1 4 3 Quy trình thiết 1

Sơ đồ 1.3: Minh họa mô hình kết nối hạ tầng M-learing.



28


1.4.3. Quy trình thiết kế hệ thống M-learning

Quy trình thiết kế hệ thống M-learning hoàn toàn tương tự như quy trình thiết kế hệ thống E-learning, cụ thể:

Bước 1: Lập kế hoạch.

Việc lập kế hoạch bao gồm các nội dung xác định mục tiêu sư phạm của hệ thống M-learning, xây dựng tiến trình dạy học kiến thức, thu nhập và phân tích thông tin, xác định nội dung và phạm vi của hệ thống M-learning, xác định công nghệ và tính năng tương tác cần thiết để đáp ứng được mục tiêu đề ra. Giai đoạn này phải xác định phương pháp sư phạm áp dụng cho hệ thống M- learning, lựa chọn phương tiện phù hợp tự động hóa quá trình dạy học.

Bước 2: Thiết kế cấu trúc hệ thống M-learning.

Nhiệm vụ của bước này là xác định toàn bộ cấu trúc liên kết giữa các thành phần, cách tổ chức hệ thống M-learning, cấu trúc khóa học trực tuyến phù hợp với phương pháp đã nêu ra, lựa chọn các tương tác cần thiết giúp người sử dụng dễ dàng khai thác, lựa chọn ngôn ngữ cần thiết để thể hiện các tương tác đó, phác thảo thiết kế đồ họa, thiết kế các trang web, phân đoạn thông tin thành các trang riêng lẻ.

Bước 3: Xây dựng hệ thống M-learning.

Việc xây dựng hệ thống bắt đầu từ việc sử dụng các công cụ xây dựng hệ thống M-learning đến công việc thiết kế các trang riêng lẻ để thực hiện theo các chiến lược xây dựng hệ thống M-learning đã nêu ra.

Bước 4: Thiết kế, biên tập hệ thống học liệu điện tử.

Căn cứ vào mục đích và danh mục những khóa học dự kiến, một công việc đặc biệt quan trọng và triển khai việc thiết kế, biên tập hệ thống HLĐT. Một hệ thống M-learning chỉ thực sự phát huy được hiệu quả khi có được một hệ thống HLĐT đáp ứng được nhu cầu người học.

Nếu hệ thống HLĐT được thiết kế để dạy tự học thì ngoài các tiêu chí chung, phải phù hợp với việc tự học của HS (xem thêm mục 2.3).



29


Bước 5: Thiết kế các khóa học trực tuyến.

Thiết kế khóa học trực tuyến là việc căn cứ vào nguồn HLĐT của hệ thống và nhu cầu thực tiễn, người quản lý hệ thống kết hợp với GV thiết kế các khóa học với chương trình, nội dung cụ thể để người học lựa chọn, đăng ký tham gia.

Bước 6: Thực nghiệm, đánh giá và ứng dụng hệ thống M-learning.

Trong quá trình triển khai thực nghiệm hệ thống M -learning luôn luôn phải thập thông tin phản hồi, số liệu điều tra từ người học để làm căn cứ đánh giá, rút kinh nghiệm, sửa đổi chức năng và nội dung hệ thống M-learning.

Lưu ý: Với xu hướng làm rõ vai trò của lý luận và phương pháp dạy tự học và sự kết nối giữa dạy tự học với việc khai thác một số ứng dụng trên ĐTDĐ nên chúng tôi đã chi tiết hơn việc chuẩn bị học liệu tự học cho HS thành một bước độc lập (bước 4).

1.4.4. Học liệu điện tử

Hiện nay trên thế giới, người ta coi học liệu là các phương tiện vật chất lưu giữ, mang hoặc phản ánh nội dung tri thức, đóng vai trò phương tiện dạy và học. Học liệu bao gồm hai yếu tố không thể tách rời là đối tượng lưu trữ thông tin và nội dung tri thức. Việc phân loại học liệu cũng có nhiều cách tiếp cận, chẳng hạn ta có thể phân loại như sau: học liệu truyền thống (học liệu in, học liệu nghe nhìn) và học liệu điện tử (HLĐT).

Khái niệm HLĐT mới xuất hiện trong thời gian gần đây nên hiện nay chưa có được một định nghĩa chung, thống nhất. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng các quan niệm về HLĐT đều có điểm chung: HLĐT là các tài liệu học tập được số hóa theo một cấu trúc, định dạng và kịch bản nhất định được lưu trữ trên thiết bị nhớ nhằm phục vụ việc dạy và học qua các thiết bị công nghệ số như MTĐT, ĐTDĐ…

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/09/2023