14
ngày càng phát triển và hiệu quả hơn vì CNTT&TT đã tạo ra môi trường cho phép tích hợp việc tự học của cá nhân HS với tự học có tương tác với bạn học, GV từ xa qua mạng Internet.
1.2.6. Tổ chức hoạt động tự học
Có nhiều quan niệm về tổ chức hoạt động tự học. Qua nghiên cứu các tài liệu [28], [29], [30], [32]... chúng tôi thấy tổ chức hoạt động tự học là sự sắp xếp các thao tác, các hoạt động dạy học với hoạt động tự học. Với quan điểm này tổ chức hoạt động tự học cho HS là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy của GV nhằm tiến hành hướng dẫn điều khiển, chỉ đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp tự học, tự nghiên cứu của HS, giúp HS phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của mình, thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ học tập. Bản chất của việc tổ chức hoạt động tự học cho HS là sắp xếp và tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tính tự giác của HS ở mức độ cao nhất. Như vậy, tổ chức hoạt động tự học là quá trình tiến hành các biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong quá trình lĩnh hội tri thức ở trên lớp, ở nhà và trong các hoạt động thực hành, ngoại khoá.
Như vậy, ở tự học cấp độ cao, việc tổ chức hoạt động tự học có thể do HS đóng vai trò chủ đạo hoặc độc lập hoàn toàn. Trong trường hợp để đạt được mục đích phát triển năng lực tự học cho HS, người GV sẽ trực tiếp tổ chức hoạt động tự học hoặc ủy thác cho HS tham gia một phần.
Theo chúng tôi hoạt động tự học của HS mang tính cá nhân cao. Hiệu qủa tự học phụ thuộc vào các yếu tố nội lực đồng thời cũng chịu sự tác động của yếu tố môi trường tự học, cụ thể:
- Nguồn học liệu dành cho tự học (sách in, tài liệu điện tử);
Có thể bạn quan tâm!
- Khai thác một số ứng dụng trên điện thoại di động hỗ trợ học sinh lớp 12 THPT tự học Toán - 1
- Khai thác một số ứng dụng trên điện thoại di động hỗ trợ học sinh lớp 12 THPT tự học Toán - 2
- Đóng Góp Của Luận Án Về Mặt Thực Tiễn
- Thành Phần, Đối Tượng, Mô Hình Kết Nối Của Hệ Thống M-Learning
- Minh Họa Mô Hình Tổ Chức Dạy Học Bằng M-Learning
- Một Số Kỹ Năng Của Hs Khi Tự Học Trong Môi Trường M-Learning
Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.
- Điều kiện cơ sở vật chất như thư viện, mạng, máy tính;
- Điều kiện tương tác giữa HS với HS và HS với GV...
15
1.2.7. Năng lực tự học Toán
Năng lực là một thuộc tính quan trọng của nhân cách. Hiện nay, khái niệm năng lực được các nhà tâm lý học đưa ra theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, năng lực là sản phẩm tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Theo Phạm Minh Hạc [7], năng lực là một tổ hợp đặc điểm tâm lý của một người, tổ hợp này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết quả của một hoạt động nào đấy.
Theo Đặng Thành Hưng [12], năng lực được cấu thành từ những thành tố cơ bản: Tri thức về hoạt động hay quan hệ đó; Kỹ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến ứng xử với quan hệ nào đó; Những điều kiện tâm lý để tổ chức và thực hiện tri thức kỹ năng nào đó trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng.
Ta thấy các quan niệm trên đều có một điểm chung đó là: Năng lực là khả năng thực hiện một loại hoạt động nhất định nào đó của con người và năng lực được hình thành, phát triển và có thể quan sát được trong quá trình con người giải quyết các yêu cầu đặt ra.
Với cách quan niệm như trên thì ta có thể quan niệm năng lực tự học là những thuộc tính tâm lý đảm bảo thành công cho việc tự học của mỗi cá nhân.
Theo các chuyên gia, năng lực tự học được thể hiện qua việc chủ thể tự xác định đúng đắn động cơ học tập cho mình, có khả năng tự quản lý việc học của mình, có thái độ tích cực trong các hoạt động để có thể tự làm việc, điều chỉnh hoạt động học tập và đánh giá kết quả học tập của chính mình để có thể độc lập làm việc và làm việc hợp tác với người khác [19].
Trên cơ sở hệ thống hóa các tài liệu, Phạm Đình Khương [13] đã đưa ra cấu trúc của năng lực tự học Toán bao gồm các thành phần:
16
Năng lực nhận thức Toán học.
Năng lực tiến hành các hoạt động tự học trong môn Toán.
Năng lực tự quản lý hoạt động tự học.
Trong đó năng lực tự học Toán là điều kiện tâm lý để hoạt động tự học Toán diễn ra. Nếu HS không có năng lực tự học Toán thì không thể có hoạt động tự học Toán. Tuy nhiên, nếu chỉ có năng lực tự học Toán mà thiếu các yếu tố khác như động cơ, mục đích, ý chí, hứng thú tự học thì hoạt động tự học Toán sẽ không diễn ra hoặc có diễn ra nhưng không đạt được hiệu quả mong muốn.
Như vậy, năng lực tự học Toán không chỉ là điều kiện tâm lý để có hoạt động tự học Toán mà còn là mục đích của hoạt động tự học Toán. Điều cần lưu ý là năng lực tự học Toán được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động tự học Toán.
Trong năng lực tự học toán của HS THPT, ta thấy có những thành phần chính là những kỹ năng cụ thể trong quá trình tự học như: Kỹ năng nghe giảng; kỹ năng đưa ra các câu hỏi; kỹ năng trả lời các câu hỏi; kỹ năng nghiên cứu, làm việc với SGK, tài liệu học tập; kỹ năng khai thác thông tin trên mạng; kỹ năng tương tác với GV và các bạn HS; kỹ năng vận dụng tri thức và kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình tự học Toán vào học tập và thực tiễn... Năng lực tự học của HS cũng bao gồm những kỹ năng không biểu hiện một cách trực quan như: Kỹ năng xác định nhu cầu, mục đích, động cơ tự học; kỹ năng thực hiện các hoạt động trí tuệ; kỹ năng thu nhận và xử lý, lưu trữ và sử dụng lại thông tin; kỹ năng xây dựng, thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc tự học [13]...
Thực tế tổ chức hoạt động tự học Toán cho thấy: kết quả tự học phụ thuộc vào năng lực tự học của mỗi HS. Để hoạt động tự học của HS đạt được mục đích, GV cần chú trọng bồi dưỡng phát triển năng lực tự học cho HS, chẳng hạn có thể sử dụng đồng bộ các biện pháp sư phạm sau: Động cơ hóa hoạt động học
17
tập của HS; phát triển các kỹ năng, thao tác và hoạt động trí tuệ phù hợp với năng lực tự học Toán của HS; rèn luyện những kỹ năng học tập cơ bản phù hợp với nhiệm vụ tự học của HS; tổ chức hoạt động tự học hợp lý [13]
Để việc khai thác một số ứng dụng trên ĐTDĐ hỗ trợ HS tự học Toán đạt được mục đích, yêu cầu thì năng lực tự học Toán của HS là một trong những tác nhân quan trọng. Kết quả nghiên cứu về năng lực tự học Toán sẽ là một trong những cơ sở để đề tài xác định các nguyên tắc, biện pháp sư phạm cho việc khai thác một số ứng dụng trên ĐTDĐ hỗ trợ HS tự học Toán.
1.2.8. Vấn đề bồi dưỡng năng lực tự học Toán cho học sinh
Theo Nguyễn Cảnh Toàn [28], Thái Duy Tuyên [32] để bồi dưỡng năng lực tự học Toán cho HS, GV có thể thực hiện các biện pháp sau:
(1). Khuyến khích HS chủ động trong việc xây dựng kế hoạch tự học: GV yêu cầu HS đối chiếu vốn kiến thức, kỹ năng mà bản thân đã tích lũy được với chuẩn kiến thức kỹ năng môn Toán để từ đó HS tự xác định mục tiêu cũng như nhiệm vụ tự học một cách cụ thể cho bản thân. Tiếp theo căn cứ vào quỹ thời gian và khả năng của bản thân, HS sẽ xây dựng kế hoạch tự học một cách phù hợp.
(2). Đánh giá cao kết quả làm việc độc lập của HS: Năng lực làm việc độc lập của HS trong quá trình tự học được thể hiện qua nhiều góc độ, ví dụ: HS mở hướng dẫn và cố gắng hoàn thành bài tập; HS chỉ xem lời giải hoặc “cầu cứu” sự giúp đỡ của GV và các bạn sau khi đã cố gắng hết sức. HS không phụ thuộc một cách máy móc vào cách giải quyết vấn đề được giới thiệu trong HLĐT... Thực tế cho thấy, khi HS độc lập tự học thì thường có xu hướng mong muốn được kiểm tra kết quả, cách giải quyết vấn đề của mình là chính xác hay không? Trong giờ giảng, GV cần khuyến khích HS đưa ra nhận xét kết quả của mình và đánh giá cao cả về ý thức lẫn kết quả tự học của HS trước lớp để tăng thêm động lực tự học cho HS.
18
(3). Yêu cầu HS phải thực hiện các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh: GV cần cài đặt trong nhiệm vụ tự học Toán các yêu cầu đòi hỏi HS khi làm việc phải thực hiện các hoạt động tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh... Mặt khác, do HS được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau nên HS phải thực hiện việc so sánh, tổng hợp... để lựa chọn được các cách giải quyết vấn đề một cách hợp lý nhất.
(4). Yêu cầu HS thường xuyên đánh giá sự tiến bộ của bản thân: Ngoài đánh giá của GV, HS cần phải thường xuyên thực hiện việc tự đánh giá kết quả tự học của mình một cách tự giác bằng các hình thức:
- Thực hiện các bài tập, đề kiểm tra;
- Sau khi hoàn thành các bài tập có trợ giúp, HS phải tiếp tục giải quyết các bài tập trong SGK, SBT để tự kiểm tra thực chất việc nắm và vận dụng kiến thức vào giải bài tập của mình.
(5). Khuyến khích HS tranh luận và trình bày quan điểm của mình: Ngoài hình thức tổ chức cho HS tranh luận, trình bày quan điểm cá nhân trên cơ sở kết quả tự học trong các giờ lên lớp, GV cần khuyến khích HS tham gia tranh luận, bảo vệ quan điểm của mình.
1.3. Tự học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông
1.3.1. Tác động của công nghệ thông tin và truyền thông đến tự học của học sinh
Việc khai thác CNTT&TT sẽ tạo ra những yếu tố mới tác động tích cực đến việc tự học của HS như:
(i) Bên cạnh việc tiếp nhận kiến thức từ GV, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo thì HS còn có thể tiếp cận với kiến thức, với thế giới khách quan qua “sách giáo khoa điện tử”, CD-ROM, Internet...
(ii) Các phần mềm dạy học (PMDH) sẽ trợ giúp, khuyến khích một cách kịp thời tại các thời điểm cần thiết không chỉ trong các giờ học tại trường mà cả trong thời gian tự học ở nhà, giúp HS hoàn thành nhiệm vụ chiếm lĩnh kiến thức và có điều kiện phát triển tối đa năng lực của bản thân. Mặt khác, việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mỗi HS không làm ảnh hưởng tới các HS
19
khác, những HS hoàn thành sớm nhiệm vụ học tập có thể tiếp tục tiếp cận với các nội dung mới, nhiệm vụ mới để phát huy hết khả năng của bản thân.
(iii) Các PMDH tạo ra một môi trường thuận lợi, một thế giới sinh động thu nhỏ để kích thích trí tò mò, gợi nhu cầu tìm hiểu, khám phá... giúp HS chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức.
(iv) HS chủ động lên kế hoạch, triển khai việc tự học của mình tại bất kỳ thời điểm nào mà bản thân có nhu cầu nhờ các chương trình hướng dẫn trên MTĐT hoặc các chương trình dạy học từ xa qua mạng.
(v) Song song với việc khai thác CNTT&TT nhằm “cá nhân hoá” việc học tập của mỗi HS, việc tổ chức các nhóm HS cùng sử dụng mạng trong hoạt động nhóm và tương tác với các nhóm khác đã góp phần hình thành và phát triển năng lực lập kế hoạch, hoạt động hợp tác cho HS.
(vi) HS có thể sử dụng PMDH để biểu diễn các mô hình, biểu đồ, hình vẽ, thí nghiệm ảo... một cách trực quan, sinh động. Chỉ với một vài thao tác đơn giản là có được hình ảnh về đối tượng nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau, hoặc có thể thay đổi một vài yếu tố của đối tượng để nghiên cứu các thành phần còn lại từ đó phát hiện ra các mối quan hệ, tính chất của chúng.
Theo chúng tôi: CNTT&TT đã làm cho quá trình dạy học không còn bị ràng buộc bởi không gian và thời gian. HS có thể học ở mọi nơi, học mọi lúc, học suốt đời. Việc học tập trở nên uyển chuyển, linh hoạt, căn cứ vào nhu cầu của HS. HS được phép lựa chọn những phương thức học tập có hiệu quả, lựa chọn nội dung bài giảng và các tài liệu có liên quan phù hợp với năng lực bản thân. HS chủ động trao đổi và khai thác các thông tin trên Internet nhằm đáp ứng nhu cầu về kiến thức liên quan đến nội dung học tập của mình. CNTT&TT cũng đã tạo ra một môi trường tương tác để người học hoạt động và thích nghi trong môi trường đó. Như vậy, CNTT&TT tạo điều kiện cho người học độc lập với mức độ cao và hỗ trợ cho người học vươn lên trong quá trình học tập.
20
1.3.2. Khai thác công nghệ thông tin và truyền thông trong tự học
Khai thác công nghệ thông tin và truyền thông trong hình thức tự học có hướng dẫn trực tiếp của giáo viên
Trong môi trường dạy học truyền thống, tự học có hướng dẫn trực tiếp của GV được hiểu là trong quá trình HS tự học luôn có GV ở bên cạnh để đưa ra các hỗ trợ khi cần thiết. Như vậy, GV chỉ có thể hướng dẫn trực tiếp HS qua các giờ lên lớp. Tuy nhiên, thời lượng dành cho lên lớp của GV chủ yếu để giảng giải kiến thức mới nên rất khó để dành ra một thời lượng cho việc hướng dẫn HS tự học trong các giờ chính khóa.
Trong điều kiện có sự hỗ trợ của CNTT&TT, khái niệm tự học có hướng dẫn trực tiếp được mở rộng. Hình thức tự học có hướng dẫn trực tiếp là hình thức học tập, trong đó HS nhận được sự hỗ trợ trực tiếp của GV trên lớp học hay được thực hiện qua mạng Internet (lớp học ảo). CNTT&TT sẽ giúp GV “mở rộng thời gian, không gian” hướng dẫn HS tự học dưới nhiều hình thức. Như vậy, mọi khó khăn của HS đều nhận được sự hướng dẫn trực tiếp của GV một cách kịp thời và chắc chắn HS sẽ có nhiều cơ hội hơn để hoàn thành nhiệm vụ tự học.
Khai thác công nghệ thông tin và truyền thông trong tự học không có hướng dẫn trực tiếp của giáo viên
Trong điều kiện truyền thống, để HS có thể tự học trong điều kiện không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV, chúng ta phải chuyển tới tay HS các tài liệu học tập. Hạn chế lớn nhất của hình thức này là tài liệu khó có thể đưa ra mọi sự chỉ dẫn nên HS có thể gặp khó khăn và HS bắt buộc phải đợi một thời gian để gửi những khó khăn đến GV và cũng phải tiếp tục đợi cho đến khi nhận được thông tin hỗ trợ từ GV. Như vậy, quá trình tự học của HS có nguy cơ không thể diễn ra liên tục theo kế hoạch đã dự định.
21
Để kịp thời hỗ trợ HS trong việc tự học ở hình thức này, chúng ta hoàn toàn có thể khai thác CNTT&TT để tạo ra một “GV ảo” luôn ở bên cạnh HS. Người GV “ảo” sẽ ngay lập tức đưa ra sự hỗ trợ để HS vượt qua các trở ngại tiếp tục tự học bằng các biện pháp cụ thể sau:
(i) Thiết kế các HLĐT có tương tác để cài đặt nhiệm vụ và dự kiến trước các hướng dẫn để HS hoàn thành nhiệm vụ tự học cũng như các câu hỏi dạng trắc nghiệm để kiểm tra kết quả tự học của HS. Ta có thể hình dung nội dung kiến thức HS cần chiếm lĩnh được cấu trúc dưới dạng lặp không biết trước số lần. Nội dung tự học được thiết kế thành các nhiệm vụ cụ thể. Chỉ khi nào HS hoàn thành nhiệm vụ đang thực hiện thì tài liệu mới mở ra nhiệm vụ mới. Với mỗi nhiệm vụ tự học tùy vào sai lầm của HS, tài liệu sẽ đưa ra các hướng dẫn tương ứng.
(ii) Yêu cầu HS truy cập vào website nhận nhiệm vụ, nghiên cứu tài liệu và trả lời các câu hỏi. Trong quá trình tự học, HS sẽ tương tác với HLĐT để nhận nhiệm vụ, khẳng định kết quả tự học cũng như nhận được các thông tin hỗ trợ để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tự học.
(iii) Khai thác công nghệ web, khả năng tương tác để các HLĐT ngoài việc trình bày nội dung kiến thức, còn hướng dẫn cả cách thức hoạt động để phát hiện vấn đề, thu thập thông tin, xử lí thông tin, rút ra kết luận, kiểm tra và đánh giá kết quả...
(iv) Thông qua trang web, GV thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của HS sau quá trình tự học và sẽ giúp đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của HS cho phù hợp với năng lực của HS, dẫn dắt HS tự học từ thấp lên cao, tự học từng phần cho đến tự học phần lớn nội dung.
(v) Với sự hỗ trợ của CNTT&TT, ta không chỉ tạo ra một GV “ảo” thay mặt người GV hỗ trợ cho HS một phần nào trong quá trình tự học mà người GV “ảo” này còn có thể tạo ra sự khác biệt với người GV trên lớp học ở chỗ có thể “nhân bản” thành nhiều GV “ảo” và cùng một thời điểm sẽ đưa ra các sự trợ giúp khác nhau hỗ trợ cùng một lúc nhiều HS.