khác; Hệ thống thuỷ lợi (hồ chứa, trạm bơm, mương dẫn nước, kè sông, đê biển); Hệ thống các chợ, trung tâm thương mại; Hệ thống cấp nước sạch và thoát nước thải, các công trình xử lý môi trường,...
Hạ tầng xã hội bao gồm: các công trình bảo vệ sức khỏe, dịch vụ y tế, các bệnh viện, trung tâm y tế, trung tâm dân số; các di tích lịch sử, thắng cảnh, các công trình văn hóa; công trình giáo dục từ mẫu giáo, dạy nghề đến đại học; sân vận động, nhà tập luyện,thi đấu thể thao, bể bơi; các công trình dịch vụ công cộng, cây xanh, công viên, mặt nước và các công trình phục vụ lợi ích công cộng; các khu đô thị, khu tái định cư, nhà ở xã hội; trụ sở các cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan cung cấp dịch vụ công;hệ thống xử lý rác thải đô thị, rác thải công nghiệp, rác thải y tế.
Hệ thống hạ tầng kinh tế và hệ thống hạ tầng xã hội có ý nghĩa quan trọng, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và hiệu quả kinh tế, xã hội. Để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển, nhà nước phải dành các khoản đầu tư rất lớn.
Hạ tầng mang hình thái phi vật chất bao gồm các cơ chế, chính sách liên quan đầu tư, quản lý, khai thác hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội. Các cơ chế nêu trên có thể bao gồm cơ chế về thuê đất, miễn giảm thuế các loại, sử dụng và khai thác các nguồn lực tài chính từ đất, cơ chế huy động vốn để đầu tư các công trình hạ tầng, phát hành trái phiếu công trình, vay vốn trong và ngoài nước...) và các cơ chế khác có liên quan đảm bảo cho các dạng hạ tầng kỹ thuật đủ điều kiện, cơ sở để được đầu tư.
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, hạ tầng kinh tế xã hội có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau [3, tr6].
- Nếu căn cứ theo lĩnh vực kinh tế xã hội thì hạ tầng KTXH gồm:
Hạ tầng kinh tế: là bộ phận hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của nền kinh tế quốc dân; thuộc loại này bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật như: năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản xuất và đời sống, các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không,...), bưu chính viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp. Hạ tầng kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện cải thiện cuộc sống dân cư.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Một Số Quốc Gia Và Địa Phương Trong Nước Về Huy Động Nguồn Lực Tài Chính Để Đầu Tư Hạ Tầng Kinh Tế Xã Hội Và Các Bài Học Rút Ra
- Kinh Nghiệm Của Một Số Địa Phương Trong Nước Về Huy Động Nguồn Lực Tài Chính Đầu Tư Hạ Tầng Kinh Tế Xã Hội
- Những Bài Học Kinh Nghiệm Của Các Nước Và Địa Phương Trong Nước Về Huy Động Nguồn Lực Tài Chính Để Đầu Tư Hạ Tầng Kinh Tế Xã Hội
- Huy động nguồn lực tài chính để đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội thành phố cửa khẩu quốc tế Móng Cái - 8
- Quan Hệ Giữa Đầu Tư Và Tăng Trưởng Qua Phân Tích Cung Cầu
- Những Nhân Tố Tác Động Đến Huy Động Nguồn Lực Tài Chính Để Đầu Tư Hạ Tầng Kinh Tế Xã Hội Tại Địa Phương
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
Hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội: là bộ phận hạ tầng phục vụ chung cho hoạt động xã hội; xếp vào loại này gồm nhà ở, các cơ sở khoa học, trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, thể thao,… và các trang, thiết bị đồng bộ với chúng, các cơ chế chính sách phục vụ cho phát triển xã hội của nhà nước. Đây là điều kiện thiết yếu để phục vụ, nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy, hạ tầng xã hội là tập hợp một số ngành có tính chất dịch vụ xã hội; sản phẩm do chúng tạo ra thể hiện dưới hình thức dịch vụ và thường mang tính chất công cộng, liên hệ với sự phát triển con người cả về thể chất lẫn tinh thần.
Hạ tầng môi trường: là hạ tầng phục vụ cho việc bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái như các công trình phòng chống thiên tai, hệ thống xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật của các trạm bảo vệ môi trường,... Hạ tầng của mỗi ngành, lĩnh vực bao gồm những công trình đặc trưng cho hoạt động của lĩnh vực, của ngành và những công trình liên ngành đảo bảo cho hoạt động đồng bộ của toàn hệ thống.
Nếu căn cứ theo ngành kinh tế quốc dân thì hạ tầng có thể được phân thành: hạ tầng công nghiệp, hạ tầng ngành nông nghiệp, hạ tầng ngành giao thông vận tải, hạ tầng các ngành thương mại, dịch vụ; hạ tầng văn hóa, y tế, giáo dục.
Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ, thì hạ tầng có thể được phân thành: hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn; hạ tầng kinh tế biển; hạ tầng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng trọng điểm phát triển.
Nếu theo phân cấp quản lý và phân cấp đầu tư, các công trình hạ tầng còn được phân chia thành hạ tầng do trung ương quản lý và hạ tầng do địa phương quản lý (tỉnh, huyện, xã). Ví dụ: các tuyến đường giao thông có quốc lộ, tỉnh lộ và các đường liên huyện, liên xã, liên thôn, đường trục thôn, nội thôn. Công trình hạ tầng do trung ương quản lý gồm đường quốc lộ, đường sắt, sân bay, bến cảng, các cơ sở
quốc phòng – an ninh, các công trình ngầm, công trình trọng điểm quốc gia. Hạ tầng do địa phương quản lý gồm: hệ thống cầu, đường, kênh mương nội đồng, đập nước, các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Đặc điểm của hạ tầng: Hạ tầng, nhất là hạ tầng kỹ thuật (hạ tầng kinh tế), có những đặc điểm sau [39]:
(i) Tính hệ thống cao. Hệ thống hạ tầng mang tính hệ thống chẳng những trong nội bộ một phân ngành, mà còn đối với cả lĩnh vực (ngành) hạ tầng; hạ tầng mang tính chất thống nhất, liên hoàn, các bộ phận có tác dụng tương hỗ và bổ sung cho nhau. Ngành điện là một ví dụ về tính hệ thống rất cao trong một phân ngành hạ tầng. Hạ tầng giao thông là một ví dụ khác. Để khai thác hiệu quả các dịch vụ vận tải, hệ thống hạ tầng giao thông phải được đầu tư phát triển đảm bảo tính hệ thống nhằm phát triển vận tải đa phương thức, logistics, nâng cao hiệu quả vận tải.
Xét trên khía cạnh khai thác lãnh thổ, sự đầu tư đảm bảo tính đồng bộ giữa các loại hình hạ tầng (giữa phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng cấp điện và hạ tầng cấp nước…) sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả khai thác lãnh thổ (nâng cao “sức chứa” của lãnh thổ về phát triển kinh tế - xã hội).
(ii) Tính vượt trước. Đây là vấn đề quan trọng, khi xác định hướng khai thác lãnh thổ giàu tiềm năng.Nhưng kinh tế còn kém phát triển (nói cách khác là các hoạt động kinh tế - xã hội còn nghèo), việc đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông,… sẽ mở đường cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển. Tính chất này đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có tầm nhìn dài hạn.
Tuy nhiên, tầm nhìn về phát triển hạ tầng vốn phụ thuộc vào ý đồ khai thác và phát triển kinh tế - xã hội theo vùng lãnh thổ hoặc theo địa giới hành chính. Vấn đề đặt ra là phát triển hệ thống hạ tầng đi trước (vượt trước) như thế nào?
(iii) Tính hiện đại. Các công trình hạ tầng thường tồn tại và có ảnh hưởng lâu dài đến phát triển kinh tế - xã hội. Việc xác định rõ xu thế phát triển, xác định rõ những yếu tố nền tảng về kỹ thuật công nghệ, để đảm bảo các công trình hạ tầng không bị lạc hậu và dễ dàng được hiện đại hoá là hết sức quan trọng, đảm bảo hiệu quả lâu dài của công trình hạ tầng và tiết kiệm với đầu tư.
(iv) Vốn đầu tư vào các dự án hạ tầng thường rất lớn, thời gian triển khai kéo dài nhiều năm. Quá trình triển khai, vận hành phải huy động nguồn vốn đầu tư lớn cũng như phải có một quá trình theo dõi, quản lý vốn đầu tư và giám sát quá trình thi công. Lợi ích mang lại của hệ thống hạ tầng thường phát huy trong một thời gian dài, không chỉ cho người dân đang sống được hưởng lợi mà các thế hệ sau này cũng vẫn được hưởng những lợi ích đó. Điều này cho phép nhà nước, các địa phương có thể huy động nguồn lực tài chính dưới nhiều hình thức huy động khác nhau.
2.1.1.4. Vai trò của hạ tầng kinh tế xã hội đối với sự phát triển kinh tế xã hội
Vớitính chất đa dạng và thiết thực, hạ tầng là nền tảng vật chất cóvai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như mỗi vùng lãnh thổ. Có hệ thống hạ tầng đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Trình độ phát triển của hạ tầng có ảnh hưởng tích cực, quyết định đến trình độ phát triển kinh tế xã hội ở cả các nước phát triển và đang phát triển; trong đó, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và tác động rất mạnh đến công tác xoá đói, giảm nghèo của mỗi quốc gia và địa phương [71].
Naoyuki Yoshino và Masaki Nakahigashi (2000), đã nghiên cứu về vai trò của kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển kinh tế ở các nước Đông Nam Á và đưa ra kết luận rằng, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các nước vì hai lý do: (1) phát triển kết cấu hạ tầng góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế; và (2) phát triển kết cấu hạ tầng có tác động rất tích cực đến giảm nghèo [77].
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng thường chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư và chiếm từ 40-60% tổng vốn đầu tư công. Tính trung bình, lượng đầu tư này chiếm 4% GDP của các nước đang phát triển, cá biệt có nước chiếm hơn 10%.Đối với Việt Nam, hạ tầng kinh tế xã hội có vai trò và một số tác động quan trọng sau:
(1) Kết cấu hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn đầu tư đa dạng cho phát triển kinh tế xã hội. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ở những địa
phương được hưởng lợi từ nâng cấp, cải tạo hệ thống hạ tầng cao hơn thì lượng vốn đầu tư ở vùng đó cũng cao hơn. Theo nguyên lý, vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư của các đơn vị sản xuất kinh doanh thường chảy về nơi có môi trường thuận lợi. Với việc tạo ra tiềm năng hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội sẽ tạo tạo ra hệ thống hạ tầng có tính chất liên kết vùng, thúc đẩy lưu thông, trao đổi thông tin, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đầu tư sản xuất, liên doanh liên kết, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
(2) Hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện đểt phát triển các vùng kinh tế động lực, các vùng kinh tế trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động lan tỏa lôi kéo các vùng liền kề phát triển.
(3) Hạ tầng phát triển trực tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ nghèo thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng cao điều kiện sống của hộ dân.
(4) Phát triển hạ tầng thực sự có ích với người nghèo và góp phần vào việc giữ gìn môi trường.
(5) Đầu tư vào hệ thống hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem đến tác động cao nhất đối với giảm nghèo.
(6) phát triển hạ tầng kinh tế xã hội tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải thiện tình trạng sức khỏe cho người dân, góp phần giảm thiểu bất bình đẳng về mặt xã hội cho người nghèo[42].
Tóm lại, hạ tầng kinh tế xã hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế xã hội của một quốc gia, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, hệ thống hạ tầng thiếu và yếu đã gây ứ đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu tư, gây ra những điểm nghẽn ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế [26].
Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những nước có hệ thống hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó, hầu hết các quốc
gia đang phát triển đang có hệ thống hạ tầng kém phát triển. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng đang là ưu tiên của nhiều quốc gia đang phát triển. Ở Việt Nam, với quan điểm “kết cấu hạ tầng đi trước một bước”, những năm qua Chính phủ đã dành mức đầu tư cao cho đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng. Khoảng 9-10% GDP hàng năm được đầu tư vào ngành giao thông, năng lượng, viễn thông, nước và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tư hạ tầng cao so với chuẩn quốc tế. Và nhiều nghiên cứu kinh tế vi mô cũng cho thấy rằng có mối liên hệ mạnh mẽ giữa đầu tư phát triển hạ tầng với tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam.
2.1.2. Nguồn lực tài chính đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội tại địa phương
2.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế xã hội được hiểu là các nguồn tiền tệ (hoặc tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền) trong nền kinh tế có thể huy động để hình thành nên các quỹ tiền tệ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của các nước. Khi nói tới nguồn lực tài chính, người ta quan tâm nó có xuất phát từ đâu, thuộc sở hữu của ai. Nguồn lực tài chính khác với các nguồn lực khác như nguồn lực tài nguyên, nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học công nghệ,... là những nguồn lực không phải dưới dạng tiền hoặc tài sản tương đương tiền. Khi nguồn lực tài chính này thuộc sở hữu của khu vực kinh tế tư nhân, ta gọi đó là nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân, cụ thể là các cá nhân, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước.
Nguồn lực tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích nhất định. Xét về nội dung, nguồn lực tài chính được hiểu là biểu hiện về mặt giá trị của toàn bộ của cải vật chất xã hội trong một thời gian nhất định.Xét về mặt hình thức, nguồn lực tài chính có thể hữu hình hoặc vô hình.
Ở dạng hữu hình, nguồn lực tài chính được biểu hiện dưới hình thức giá trị và hình thức tài sản vật chất (hiện vật). Dưới hình thức giá trị, nguồn lực tài chính có thể tồn tại dưới dạng tiền bản tệ, vàng và ngoại tệ. Nguồn lực tài chính tồn tại dưới dạng tiền tệ đang vận động thực tế trong chu trình tuần hoàn của nền kinh tế được gọi là nguồn lực tài chính thực tế. Dưới hình thức hiện vật, nguồn lực tài chính
có thể tồn tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, công sản, đất đai,... Nguồn lực tài chính dưới dạng hiện vật có thể phân chia thành: (1) Nguồn lực tài chính thực tế, khi các tài sản nêu trên đã được khai thác sử dụng tham gia vào chu trình tuần hoàn của nền kinh tế; (2) nguồn lực tài chính tiềm năng, trong trường hợp các tài sản này chưa được khai thác sử dụng tham gia vào chu trình tuần hoàn của nền kinh tế.
Ở dạng vô hình, nguồn lực tài chính là tài sản tồn tại dưới dạng những sản phẩm không có hình thái vật chất như: dữ liệu, hình ảnh, ký hiệu, phát minh, sáng chế, bí quyết, vị trí địa lý,... Những sản phẩm trên bản thân chúng có giá trị, có thể chuyển thành tiền thông qua mua bán, do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính tồn tại ở dạng vô hình cũng có thể là nguồn lực tài chính thực tế và nguồn lực tài chính tiềm năng. Tài sản vô hình cũng như những tài sản hữu hình là những tài sản có giá trị lớn, thời gian hữu ích lâu dài, hình thái biểu hiện rất đa dạng và khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chủng loại của tài sản vô hình càng phong phú.
Nguồn lực tài chính hữu hình là tổng lượng của cải vật chất mà toàn xã hội có thể chi phối và sử dụng trong một thời kỳ nhất định. Nó là điều kiện vật chất cho việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính vô hình và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do giới hạn về số lượng của sản phẩm tự nhiên, của cải vật chất nên nguồn lực tài chính hữu hình mang tính giới hạn. Ngược lại, nguồn lực tài chính vô hình hầu như không có giới hạn, chúng có thể khai thác sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi, do đó trí thức của con người không ngừng phát triển, sáng tạo.
Nguồn lực tài chính ở dạng hữu hình hay vô hình đều có thể tồn tại dưới dạng nguồn tài chính thực tế hoặc dưới dạng nguồn tài chính tiềm năng. Gọi là nguồn tài chính tiềm năng, bời vì chúng được coi như có một khả năng tài chính. Sự chuyển hóa giữa nguồn tài chính tiềm năng thành nguồn tài chính thực tế và ngược lại diễn ra một cách thường xuyên, liên tục trong chu trình tuần hoàn của nền kinh tế, đặc biệt khi có sự tác động tích cực hoặc hạn chế của con người thông qua công cụ và chính sách huy động nguồn lực. Chẳng hạn, một tài sản vật chất đang tồn tại dưới dạng tiềm năng, khi có tác động của con người nó sẽ trở thành nguồn vốn tham gia vào chu trình tuần hoàn của nền kinh tế, lúc này tài sản đó trở thành nguồn lực
tài chính thực tế; ngược lại, một tài sản đang tham gia vào chu trình tuần hoàn của nền kinh tế sẽ trở thành nguồn tài chính tiềm năng khi tài sản đó không tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, không được khai thác sử dụng tách khỏi chu trình tuần hoàn của nền kinh tế.
Nguồn lực tài chính để đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội được huy động từ nhiều nguồn khác nhau và các kênh huy động khác nhau. Nguồn lực tài chính cho đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội không chỉ được huy động trong phạm vi một quốc gia mà còn được huy động từ các quốc gia khác trên thế giới. Như vậy, nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực tài chính trong nước và nguồn lực tài chính từ nước ngoài. Nguồn lực tài chính trong nước bao gồm nguồn lực từ khu vực nhà nước và nguồn lực từ khu vực tư nhân. Nguồn lực tài chính từ khu vực nhà nước gồm: nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn lực tài chính từ các doanh nghiệp nhà nước, nguồn lực tài chính từ các tổ chức tài chính trung gian của nhà nước. Nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân gồm: nguồn lực từ các doanh nghiệp tư nhân, nguồn lực tài chính của các tổ chức tài chính trung gian của khu vực tư nhân, nguồn vốn tiết kiệm của các hộ gia đình, cá nhân. Nguồn lực tài chính từ nước ngoài gồm: nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn từ các tổ chức phi Chính phủ (NGO), nguồn vốn từ cá nhân người nước ngoài.
Quá trình huy động nguồn lực tài chính (huy động vốn) là việc sử dụng những cách thức, phương pháp thông qua sự điều tiết của thị trường tài chính và hệ thống pháp luật của nhà nước để lấy vốn từ nguồn đưa vào sử dụng cho mục đích nhất định. Huy động vốn từ các nguồn khác nhau đến nơi sử dụng vốn đó phải sử dụng các công cụ tài chính để huy động với nhiều kênh khác nhau. Kênh huy động chính là phương tiện, cầu nối giữa nguồn vốn và vốn đầu tư.
Đặc điểm của nguồn lực tài chính
Thứ nhất: Nguồn lực tài chính luôn gắn với quan hệ sở hữu (sở hữu công, sở hữu tư). Việc gắn liền với quan hệ sở hữu là cơ sở để khai thác và sử dụng các nguồn lực; đồng thời, đó sẽ là tiền đề sinh ra các quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện được lợi ích của mình.