18
cầu vay vốn thì các ngân hàng lớn sẽ được nhắm đến trước tiên. Do vậy khi xảy ra sự cố bất lợi dẫn đến các khoản nợ xấu khó đòi, thì các khoản nợ này sẽ để lại một tỷ lệ nợ xấu cao cho các ngân hàng có quy mô lớn.
2.1.5.5 Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của một ngân hàng thể hiện ở hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó. Theo nghiên cứu của Hu và các cộng sự (2004), những ngân hàng có hiệu quả hoạt động tốt thì sẽ có mức nợ xấu có mối tương quan ngược chiều với hiệu quả hoạt động. Lý giải cho điều này là do khi các ngân hàng có hiệu quả hoạt động cao, lợi nhuận tăng trưởng tốt thì sẽ cân nhắc hơn khi tham gia cấp tín dụng cho những đối tượng khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, từ đó làm giảm nguy cơ dẫn đến nợ xấu cho ngân hàng.
2.1.5.6 Tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Theo bài nghiên cứu của PGS.TS Đặng Văn Dân, định nghĩa tăng trưởng tín dụng là sự gia tăng các khoản cấp tín dụng của ngân hàng cho các khách hàng, trong đó bao gồm khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở mang lại lợi nhuận cho ngân hàng và góp phần vào quá trình phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Tốc độ tăng trưởng tín dụng được đo lường bằng tỷ lệ tương đối giữa biến động giá trị của các khoản tín dụng ở kỳ hiện tại so với các khoản tín dụng ở kỳ trước. Theo Daniel Foos & ctg (2010), tốc độ tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Do các ngân hàng tăng trưởng tín dụng nhanh, chạy theo số lượng thì nguy cơ dẫn đến nợ xấu là khá cao.
2.1.5.7 Tỷ lệ lạm phát
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Phùng Thùy Dung - 2
- Tổng Quan Lý Thuyết Về Các Yếu Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Nợ Xấu
- Tổng Hợp Các Biến Độc Lập Tác Động Đến Nợ Xấu Của Nhtm Trong Các Nghiên Cứu Trước Đây
- Kết Quả Nghiên Cứu Về Các Yếu Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Tổng Tài Sản Và Tỷ Lệ Nợ Xấu Của 25 Nhtm Việt Nam Từ Năm 2007-2017
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Theo nghiên cứu của Skarica (2013), tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ lệ nợ xấu của các NHTM. Tỷ lệ lạm phát thể hiện tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Tỷ lệ này có thể tồn tại quan hệ cùng chiều hoặc ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu của các NHTM. Trong thực tế, lạm phát làm giảm nguồn thu nhập thực tế của khách hàng vay
19
vốn, khách hàng thiếu hụt nguồn thu trả nợ cho ngân hàng, dẫn đến nợ xấu cho ngân hàng. Ở một khía cạnh khác, lạm phát cũng có thể làm tăng khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn thông qua việc làm giảm giá trị thực những món vay trước đó của các khách hàng, các khách hàng thu được phần lợi về phía mình.
2.1.5.8 Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Theo Makri và cộng sự (2014), tốc độ phát triển kinh tế có mối tương quan cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Tốc độ phát triển kinh tế thể hiện mức phát triển kinh tế của một đất nước. Khi kinh tế phát triển giúp cho môi trường phát triển hoạt đông sản xuất kinh doanh gặp nhiều điều kiện thuận lợi, các khách hàng vay vốn dễ dàng kinh doanh có lợi nhuận tốt, có thể hoàn trả các khoản nợ cho ngân hàng đúng cam kết. Ngược lại nếu nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn gặp khó khăn, khách hàng không có đủ nguồn thu nhập để hoàn trả nợ vay cho ngân hàng, dẫn đến nợ xấu cho các ngân hàng và làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng này.
2.1.5.9 Tỷ lệ thất nghiệp
Theo nghiên cứu của Skarica (2013), tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ này thể hiện tình trạng phát triển của một quốc gia cũng như nền kinh tế của quốc gia đó. Tình trạng thất nghiệp gia tăng kéo theo các hệ lụy các hộ gia đình sẽ không có đủ điều kiện kinh tế phục vụ cuộc sống, sự sụt giảm trong việc chi tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra sản phẩm của các doanh nghiệp. Việc này dẫn đến hậu quả nguồn thu nhập cá nhân bị hạn chế, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Do vậy làm gia tăng những khoản nợ xấu khó thu hồi thể hiện bởi tỷ lệ nợ xấu của các NHTM.
20
2.1.5.10 Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến các nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cần nhập nguyên liệu, máy móc thiết bị của các nước trên toàn thế giới. Khi tỷ giá hối đoái tăng doanh nghiệp phải chi trả số tiền nhiều hơn cho việc đầu tư sản xuất, ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm, doanh nghiệp sẽ có lợi khi số tiền chi trả cho việc đầu tư sản xuất kinh doanh giảm. Tuy nhiên khi doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa thì tỷ giá hối đoái sẽ có tác động ngược lại. Do đó, tỷ giá hối đoái tăng hoặc giảm sẽ làm ảnh hưởng đến nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho các khoản vay của doanh nghiêp tại các NHTM. Biểu hiện cụ thể trong trường hợp xấu khi các doanh nghiệp không hoàn trả các khoản vay đúng thời hạn cam kết cho ngân hàng, làm phát sinh các khoản nợ xấu tại các NHTM.
2.2 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại
2.2.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Salas và Saurina (2002), nghiên cứu về vấn đề nợ xấu tại các ngân hàng Tây Ban Nha giai đoạn 1985-1997 “Credit Risk in Two Institutional Regimes: Spanish Commercial and Savings Banks”. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu, mối quan hệ ngược chiều của quy mô ngân hàng và nợ xấu, mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP và nợ xấu của các ngân hàng. Bên cạnh đó tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu của ngân hàng. Theo đó các ngân hàng có quy mô lớn sẽ có tiềm lực tài chính tốt cũng như có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các vấn đề bất lợi hạn chế việc rủi ro gây ra nợ xấu cho ngân hàng. Ngược lại các ngân hàng nhỏ khi gặp biến động bất lợi sẽ không giải quyết tốt do thiếu kinh nghiệm và năng lực tài chính dễ dẫn đến rủi ro nợ xấu cho ngân hàng.
21
Rajan & Dhal (2003), nghiên cứu nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Ấn Độ giai đoạn 1993-2003, sử dụng bảng phân tích hồi quy. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều đến nợ xấu, tỷ lệ tăng trưởng GDP tỷ lệ nghịch với nợ xấu của các ngân hàng. Để giải thích cho kết quả này có thể hiểu như sau: khi gặp môi trường kinh doanh thuận lợi, các khách hàng vay vốn dễ dàng hoàn thành cam kết trả nợ vay đúng hạn cho ngân hàng, do đó hạn chế vấn đề phát sinh các khoản nợ xấu cho ngân hàng.
Fofack (2005), thực hiện nghiên cứu về vấn đề nợ xấu thuộc khu vực vùng tiểu bang của châu phi Sahara trong giai đoạn những năm 1990. Qua đó tác giả đưa ra kết luận rằng tỷ lệ tăng trưởng GDP tác động tiêu cực lên nợ xấu, thời kỳ kinh tế kém phát triển gây ra hệ lụy làm gia tăng những khoản nợ xấu. Tỷ lệ làm phát có mối quan hệ cùng chiều với các khoản nợ xấu.
Hu và cộng sự (2006), nghiên cứu vấn đề về mối quan hệ giữa nợ xấu và cấu trúc sở hữu của các NHTM tại Đài Loan giai đoạn từ năm 1996-1999. Kết quả nghiên cứu cho thấy hình thức sở hữu cũng là một tác nhân làm phát sinh nợ xấu: cụ thể khi các ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà nước chiếm đa số hơn thì sẽ có các khoản nợ xấu ít hơn so với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, quy mô ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu.
Khemraj & Pasha (2009), nghiên cứu vấn đề về các yếu tố trọng tâm của nợ xấu của các NHTM Guyana giai đoạn 1994-2004, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích hồi quy và bảng dữ liệu, kết quả cho thấy quy mô ngân hàng có tác động tích cực đến nợ xấu, tỷ lệ tăng trưởng GDP có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu, tốc độ phát triển nền kinh tế càng cao sẽ có tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ xấu. Tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu, các ngân hàng càng nôn nóng đẩy mạnh hoạt động tín dụng mà không đảm bảo về chất lượng các khoản vay sẽ dễ dẫn đến các khoản cho
22
vay rủi ro làm phát sinh nợ xấu cho các ngân hàng, làm cho tỷ lệ nợ xấu tăng lên. Tỷ lệ làm phát có mối quan hệ cùng chiều với các khoản nợ xấu.
Boudriga et al. (2009), nghiên cứu các khoản vay có tiềm ẩn rủi ro các nước Trung Đông và Bắc Phi thuộc sở hữu của 46 ngân hàng trải dài trên 12 quốc gia giai đoạn 2002- 2006: Nghiên cứu các khoản vay có vấn đề các nước Trung Đông và Bắc Phi, trong đó bao gồm các nguyên nhân bắt nguồn từ bên trong của các ngân hàng, trong đó bao gồm các quy định về môi trường và pháp luật trong kinh doanh.
Kết quả cho thấy khi có sự tham gia của nước ngoài đặc biệt đến từ các nước phát triển sẽ làm giảm tỷ lệ nợ xấu. Quy mô ngân hàng có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu, tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản ROA có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu. Tăng trưởng tín dụng có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, kết quả này trái ngược với các nghiên cứu trước đây.
Raphael Espinoza and Ananthakrishnan Prasad (2010), nghiên cứu vấn đề nợ xấu thuộc hệ thống ngân hàng GCC (Gulf Cooperative Council_hội đồng hợp tác vùng vịnh) và ảnh hưởng của yếu tố vĩ mô đến nợ xấu giai đoạn 1995-2008, nghiên cứu dữ liệu của 80 ngân hàng trong GCC. Tác giả sử dụng mô hình tác động cố định FEM, GMM.
Nghiên cứu đã kết luận rằng lãi suất, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP có mối quan hệ cùng chiều với các khoản nợ xấu. Bên cạnh đó, chi phí hoạt động có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Các ngân hàng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng quá cao trong quá khứ sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao trong thời gian sắp tới.
Louzis et al. (2010), nghiên cứu về vấn đề các yếu tố bên ngoài ngân hàng và yếu tố bắt nguồn từ bên trong ngân hàng ảnh hưởng đến nợ xấu của 9 ngân hàng lớn nhất đất nước Hy Lạp trong giai đoạn 2003- 2009.
23
Sử dụng mô hình GMM, nghiên cứu kết luận rằng tỷ lệ tăng trưởng GDP có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, một nền kinh tế suy thoái sẽ làm cho nợ cho nợ xấu tăng cao, bên cạnh đó lãi suất cho vay, tỷ lệ thất nghiệp có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, khi lãi suất cho vay, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao thì tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Chỉ số ROE và ROA có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu. Chỉ số tỷ lệ chi phí hoạt động so với thu nhập hoạt động, quy mô tài sản có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu.
Nkusu (2011), nghiên cứu 26 quốc gia có nền kinh tế phát triển giai đoạn 1998 – 2009. Sử dụng mô hình GMM, nghiên cứu cho thấy nền kinh tế tăng trưởng chậm, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn hoặc giảm giá tài sản gắn liền với vấn đề nợ làm tăng nợ xấu. Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng lạm phát ảnh hưởng đến những người đi vay: Trước tiên, tình trạng lạm phát cao có thể có lợi cho những người đi vay biểu hiện ở việc các khoản vay bị giảm giá trị so với lúc đi vay ban đầu, nhưng cũng làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng vay. Bên cạnh đó, các mức lãi suất thay đổi, những người cho vay có thể điều chỉnh các mức phí tính để bù đắp cho sự gia tăng lạm phát. Do đó, vấn đề đặt ra liệu lạm phát tiêu cực hay tích cực ảnh hưởng đến nợ xấu. Và kết quả nghiên cứu cho thấy tác động tích cực với nợ xấu.
Kester Guy and Shane Lowe (2011), nghiên cứu về vấn đề nợ xấu và sự lâu dài của ngân hàng tại Barbados giai đoạn 1996 – 2010. Bằng việc sử dụng mô hình FEM, kết quả cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu. Lãi suất có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, nguyên nhân của mối quan hệ này được lý giải là do khi nền kinh tế phát triển, tín dụng ngân hàng tăng cao khi đó lãi suất của hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng.
Marcello Bofondi and Tiziano Ropele (2011), thực hiện nghiên cứu vấn đề về tính hiệu quả của các khoản cấp tín dụng đối với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp và gia đình tại ngân hàng ở Italy sẽ bị tác động như thế nào do các yếu tố vĩ mô, không
24
thuộc bên trong ngân hàng gây ra trong giai đoạn 1990-2010, phân tích hồi quy với dữ liệu bảng nghiên cứu cho thấy nợ xấu có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ tăng trưởng GDP, nhưng mặt khác nợ xấu tỷ lệ thuận với lãi suất và tình trạng thất nghiệp.
Adebola et al (2011), nghiên cứu khám phá các yếu tố làm gia tăng nợ xấu của ngân hàng Hồi giáo ở Malaysia giai đoạn 2007-2009, sử dụng mô hình ARDL, các biến kinh tế vĩ mô trong nghiên cứu bao gồm chỉ số sản xuất công nghiệp, lãi suất và chỉ số giá sản xuất. Kết quả lãi suất, chỉ số sản xuất công nghiệp có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu, trong khi đó chỉ số giá sản xuất tăng sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
Marijana Curak, Sandra Pepur, Klime Poposki (2013), nghiên cứu vấn đề những yếu tố có tác động chủ yếu đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng Đông Nam Châu Âu giai đoạn 2003-2010. Việc phân tích dựa trên mẫu của 10 đất nước trong đó chọn ra 69 ngân hàng. Tác giả sử dụng mô hình GMM, kết quả bài nghiên cứu lãi suất tăng cao, lạm phát tăng lên và tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp sẽ làm gia tăng nợ xấu. Bên cạnh đó, rủi ro về tín dụng bị tác động bởi các yếu tố từ phía ngân hàng như quy mô của ngân hàng, ROA, tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản. Mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu, kết quả cho rằng các ngân hàng có quy mô lớn, có khả năng giải quyết tốt hơn khi xảy ra trường hợp bất lợi đột xuất cho ngân hàng. Các ngân hàng lớn với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm, hệ thống thông tin chuẩn xác, độ tin cậy cao sẽ đưa ra các thông tin thẩm định tín dụng chính xác trước khi cho vay, đồng thời giám sát các khoản vay chặt chẽ, hiệu quả sau khi giải ngân.
Kết quả tương tự cũng được tìm thấy bởi Salas và Saurina (2002), Godlewski (2005) cũng đã tìm thấy bằng chứng về quan hệ ngược chiều giữa nợ xấu và quy mô của ngân hàng, nghiên cứu lý giải các ngân hàng lớn hơn có lợi thế hơn trong công tác tuyên truyền cũng như phát triển các sản phẩm phong phú đa dạng hơn và do đó góp phần làm
25
giảm nguy cơ rủi ro tín dụng. ROA, GDPGR có mối quan hệ tiêu cực với nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của năm trước, lạm phát, lãi suất có mối quan hệ tích cực.
Munib Badar & Yasmin Javid (2013), nghiên cứu các tác động các yếu tố vĩ mô đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại tại Pakistan giai đoạn 2002 đến 2010. Tác giả sử dụng mô hình GMM, kết quả cho thấy tỷ lệ lạm phát và nợ xấu có mối quan hệ cùng chiều với nhau, tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối tương quan ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu.
PhD Candidate, Ali Shingjergji (2013), nghiên cứu tỷ lệ nợ xấu tại hệ thống ngân hàng của Albanian giai đoạn 2005 – 2012. Tác giả sử dụng mô hình hồi quy OLS, kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu, sự tăng trưởng của lãi suất cũng như sự gia tăng của GDP có mối quan hệ cùng chiều nợ xấu tại hệ thống ngân hàng của Albanian.
Ahlem Selma Messai (2013), thực hiện việc nghiên cứu vấn đề nợ xấu bị tác động bởi những nhân tố nào của 85 ngân hàng trong ba nước (Hy Lạp và Tây Ban Nha và Italia) trong giai đoạn từ năm 2004-2008, những quốc gia này đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng kinh tế biến động về việc cho vay không đạt chuẩn vào năm 2008.
Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết luận của tác giả cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GDP, ROA có mối quan hệ cùng chiều với nợ xấu. Tỷ lệ thất nghiệp, dự phòng rủi ro so với tổng dư nợ cho vay và lãi suất có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu.
Nir Klein (2013), nghiên cứu về vấn đề nợ xấu ở miền Trung, Đông và Nam - Đông Âu (CESEE) giai đoạn 1998-2011, sử dụng mô hình VAR cho dữ liệu bảng, kết quả cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GDP có mối quan hệ ngược chiều với các khoản nợ xấu, tỷ lê lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với các khoản nợ xấu.