lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chưa thực sự tạo điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam trong đó có việc áp dụng quyền chọn chứng khoán – là đối tượng nghiên cứu của đề tài này
Trước khi Luật chứng khoán 2006 ra đời
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường chứng khoán non trẻ và nhỏ bé nhất thế giới. Kể từ khi ủy ban chứng khoán Việt Nam được thành lập theo Nghị định 75/Cp ngày 1/1/1996 đến nay mới được hơn 10 năm. Nếu tính từ khi có quyết định 127/1998/Qđ-TTg ngày 11/7/1998 về việc thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Hà Nội thì tuổi đời của thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ là 9 tuổi. Thực tế Trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh chỉ đi vào hoạt động từ ngày 20/7/2000 và phiên giao dịch đầu tiên diễn ra vào ngày 28/6/2000; còn trung tâm GDCK Hà Nội đến tháng 3/2005 mới chính thức hoạt động. Tính tới nay Chính phủ và các cơ quan chức năng chỉ có chưa tới 10 năm để ban hành, sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp lý về thị trường chứng khoán, cho nên những hạn chế và thiếu sót là không thể tránh khỏi.
Văn bản đầu tiên điều chỉnh có thể nói là Nghị định 48/1998/Nđ-Cp ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan. Lần đâu tiên khái niệm chứng khoán và giao dịch chứng khoán được luật hóa ở Việt Nam. Là văn bản đầu tiên, nên những gì mà nghị định trên đề cập chỉ ở mức độ cơ bản, mang đến cho đối tượng tiếp nhận những kiến thức hết sức hạn chế về chứng khoán. Nghị định cũng có những hướng dẫn đối với việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên vào thời
điểm ra đời nghị định, hai trung tâm giao dịch chứng khoán phải 2 năm nữa mới hoạt động để kiểm chứng xem những quy định trong văn bản trên có phù hợp với thực tế hay không. Các quy định của Nghị định mang tính nguyên tắc cho vận hành thị trường được xây dựng chủ yếu dựa trên lý thuyết, dựa trên khung pháp luật Việt Nam thời kỳ 1998 và tham khảo pháp luật về thị trường chứng khoán của các nước trên thế giới, không có cơ sở thực tiễn. Đối với quyền chọn chứng khoán, nghị định trên hoàn toàn không đề cập. Chứng khoán theo định nghĩa của nghị định chỉ bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác. Như vậy tại thời điểm này, khái niệm chứng khoán phái sinh chưa hề được biết đến ở Việt Nam.
Những quy định trên dần dần được hoàn thiện, dẫn đến việc ra đời nghị định 144/2003/Nđ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có chứa đựng những sửa đổi bổ sung khá quan trọng nhất là việc nới lỏng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, bắt đầu quy định cụ thể về chế độ công bố thông tin của các chủ thể trên thị trường.
Tuy nhiên, nghị định 144 mới chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường sơ cấp, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng.
Có thể bạn quan tâm!
- Hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn tại Việt Nam - 3
- Thị Trường Ngoại Tệ Và Thị Trường Chứng Khoán.
- Tạo Ra Công Cụ Bảo Vệ Lợi Nhuận Và Kiếm Lời Cho Người Đầu Tư .
- Tình Hình Áp Dụng Hđ Tương Lai Và Hđ Quyền Chọn Trên Thị Trường Ngoại Tệ Và Ttck Tại Việt Nam
- Thực Trạng Triển Khai Hợp Đồng Tương Lai Và Hợp Đồng Quyền Chọn Tại Việt Nam
- Hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn tại Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung (các TTGDCK), không điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán phi tập trung. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường thứ cấp.
Mặt khác, các hoạt động giao dịch chứng khoán đang diễn ra khá sôi động trên thị trường tự do mà không có sự quản lý của Nhà nước.
Hơn nữa nghị định này vẫn giữ nguyên nhược điểm của nghị định 48 đó là chưa thừa nhận các công cụ phái sinh là các loại hàng hóa có thể giao dịch trên thị trường; chứng khoán vẫn chỉ là cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ.
Các nghị định trên đã được ban hành tạo khung pháp lý ban đầu cho việc kinh doanh chứng khoán. Song chưa có một thông tư cụ thể hướng dẫn việc thi hành như thế nào (trừ thông tư hướng dẫn việc đầu thầu trái phiếu chính phủ trên TTCK). Điều này gây khó khăn cho các chủ thể trong việc hiểu và tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán nói chung, chứ chưa nói tới nghiệp vụ về quyền chọn chứng khoán.
Ngoài hai văn bản quan trọng trên, một số văn bản liên quan cũng được ban hành để điều chỉnh thị trường như nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, nghị định về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán…
Tại thời điểm này, các quy định về thị trường chứng khoán,và hướng dẫn thi hành còn thiếu, đòi hỏi phải cho ra đời một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và điều chỉnh thị trường là Luật Chứng khoán thay thế nghị định 144 để hoàn thiện môi trường pháp lý theo đòi hỏi của thị trường cũng như yêu cầu hội nhập của lĩnh vực tài chính. Để phát triển các nghiệp vụ liên quan đến quyền chọn chứng khoán, luật mới cần thừa nhận các công cụ tài chính phái sinh như là các loại hàng hóa trên TTCK
Sau khi Luật chứng khoán 2006 ra đời:
Luật Chứng khoán 2006 – luật số 70/2006/QH11 được quốc hội khóa 11 thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 sau 3 năm triển khai xây dựng, với 10 lần dự thảo với nhiều bước bổ sung, sửa đổi, lấy ý kiến đóng góp của mọi đối tượng tham gia và quan tâm đến thị trường chứng khoán cũng như trình xin ý kiến từ các cơ quan chức năng. Sự ra đời của luật được coi là bước đột phá tạo khung pháp lý đầy đủ thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho TTCK phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư, đồng thời giúp cho công chúng dễ dàng hiểu biết về chứng khoán, TTCK và tạo cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Theo đó, nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư phát triển. Luật Chứng khoán ra đời giúp phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu TTCK nói chung, cũng như thúc đẩy việc tự chủ của doanh nghiệp khi huy động vốn trên TTCK. Bên cạnh đó sẽ giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay. Đồng thời, Nhà nước có chính sách quản lý, giám sát bảo đảm TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả.
Luật chứng khoán ra đời trong bối cảnh thị trường chứng khoán tập trung đã ra đời hơn 5 năm nên những quy định trong luật được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu thị trường, mang tính thực tiễn cao; đồng thời vào thời đoạn cuối năm 2006, thị trường chứng khoán diễn ra hết sức sôi động, có thể gọi là nóng, chỉ số VnIndex tăng nhanh liên tục, nhà đầu tư đặt ra những đòi hỏi về tính minh bạch của thị trường, an toàn và hiệu quả đối với khoản đầu tư. Cho nên việc ban hành luật chứng khoán đã đáp ứng kỳ vọng của họ.
Nghiên cứu luật chứng khoán 2006 cho thấy nhà nước đã có tuyến bố khá rõ ràng về chính sách phát triển chứng khoán, nhấn mạnh các vấn đề công khai, minh bạch thông tin, các thủ tục và quy trình mà các chủ thể trên thị trường phải tuân theo, chú trọng tới công tác thanh tra, giám sát thị trường; xử lý, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Điểm đột phá trong luật này đó là việc đề cập tới các công cụ tài chính phái sinh đó là quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Điều này thể hiện sự thừa nhận đối với các loại chứng khoán trên, tạo cơ sở ban đầu để hình thành thị trường và tiến hành các giao dịch.
Theo sau luật Chứng khoán 2006, nghị định 14/2007/NĐ-CP cũng được ban hành quy định chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán. Cùng với đó bộ tài chính có một số thông tư hướng dẫn cụ thể các hoạt động trên TTCK như thông tư hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK, thông tư hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng…Điều này thể hiện nỗ lực của chính phủ trong việc đồng bộ hóa và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật của mình.
2.Diễn biến trên thị trường ngoại tệ và TTCK thời gian qua 2.1.Thị trường ngoại tệ
Những năm qua, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã rất thành công trong việc điều hành chính sách tỉ giá hối đoái. Trong khi giá trị các đồng tiền so với Đôla Mỹ thay đổi thất thường thì tỉ giá USD/VND vẫn luôn ổn định. Điều này không những góp phần vào sự ổn định hệ thống tài chính trong nước mà còn tạo ra sự ổn định môi trường kinh tế nhất là xuất khẩu.
NHNN đang áp dụng chính sách tỉ giá thả nổi nhưng có sự điều tiết của Nhà nước. Kể từ năm 1999, NHNN đã duy trì một biên độ biến động hàng ngày là +/-0,25% so với đồng đôla. NHNN can thiệp vào thị trường chủ yếu thông qua các hoạt động trên thị trường mở.
Năm 2000 và 2001, với chính sách khuyến khích xuất khẩu, tiền Đồng (VND) đã bị đánh trượt giá khá mạnh so với đồng đôla, lần lượt là 3,46% và 3,9%. Tuy nhiên, kể từ đó đến nay, mức độ trượt giá hàng năm đã giảm dần.
Tính vào thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2006, một đôla đổi được
16.051 đồng, tăng 137 điểm, tương ứng 0,86% so với đầu năm (15914). Các năm trước đây, tỉ lệ trượt giá của tiền đồng so với đôla như sau: năm 2005, 0,86%; năm 2004, 0,84%; năm 2003, 1,56%; năm 2002, 1.98%.
Tính từ đầu năm 2006 đến 12 tháng 10 năm 2006, mức thấp nhất đạt được là 15901 vào ngày 14 tháng 3, mức cao nhất đạt được là 16.056 vào ngày 29 tháng 9. Mức 16.056 đạt được cũng cao hơn tới 60 điểm so với ngày xảy ra hiện tượng tỉ giá trên thị trường tự do đạt mức trao đổi 17.200 (ngày mùng 9 tháng 5 năm 2006).
Sang đến năm 2007, vào 9-2, giá USD xuống dưới mốc 16.000 đồng sau nhiều ngày tụt giảm, và duy trì như vậy cho đến hết tháng, do nguồn cung ngoại tệ tăng đột biến trong khi lượng tiền đồng từ hệ thống ngân hàng lại không đủ đáp ứng. Tuy nhiên, kể từ 2/3, tỷ giá USD/VND của các ngân hàng chạm mốc 16.001 và liên tiếp tăng từ đó đến nay.
Tuy nhiên, trong mấy tháng cuối năm lại diễn ra tình trạng thừa ngoại tệ ở các NHTM. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng (NH) thương mại liên tục đặt ở mức giá sàn, mức thấp nhất trong biên độ cho phép (+/- 0,5% so với tỷ giá bình quân liên NH) được lý giải bằng tình trạng dư thừa ngoại tệ.
Một lượng lớn vốn ngoại tệ đổ vào nước ta thông qua nhiều kênh như: TTCK, vốn FDI, kiều hối và được quy đổi sang VNĐ tại các NH thương mại. Hiện nay doanh số mua bán ngoại tệ của NH khoảng 100 triệu USD/ngày, trong đó khách hàng bán chủ yếu là DN xuất khẩu và các quỹ đầu tư nước ngoài, khách hàng mua là các DN nhập khẩu và các NH trong nước. Lượng ngoại tệ mua vào lớn hơn lượng ngoại tệ bán ra khoảng vài triệu USD/ngày. Điều này đã làm cho các NH dư thừa ngoại tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay tâm lý thích giữ USD của người dân đã giảm đi khi nhận thấy việc gửi tiền tiết kiệm dài hạn bằng USD không có lợi bằng tiền đồng.
Lực hút của USD ngày càng kém đi, trong khi các DN vẫn chuộng vay ngoại tệ. Cho dù lãi suất cho vay ngoại tệ có ở mức 6-7%/năm thì DN vay ngoại tệ vẫn có lợi 1-2% so với vay VNĐ. Hai xu hướng ngược chiều này cho thấy các NH đang rơi vào tình trạng thừa ngoại tệ trên kênh mua và bán nhưng lại thiếu ngoại tệ trên kênh huy động và cho vay. Điều này lý giải vì sao trong bối cảnh hiện nay có nhiều NH than thừa ngoại tệ nhưng vẫn có NH công bố tăng lãi suất huy động bằng ngoại tệ.
Để cân bằng trên 2 thị trường này, có ngân hàng lấy ngoại tệ trên thị trường mua bán để giải quyết nhu cầu ngoại tệ trên thị trường cho vay. Tuy nhiên giải pháp lấy tiền đồng mua USD rồi cho vay tiềm ẩn nguy cơ gặp rủi ro cho các NH khi tỷ giá USD/VND biến động. Chẳng hạn, lúc mua USD để cho vay giá USD ở mức 16.078 đồng/USD nhưng sau 3 tháng bán USD lấy tiền đồng thì giá USD rớt xuống 15.900-16.000 đồng/USD, khi đó NH sẽ bị lỗ. Thực tế khi thực hiện giải pháp này nếu NH không bị rủi ro về biến động tỷ giá thì lãi thu được cũng không cao. Do vậy, dù quy định trạng thái ngoại tệ là 30% nhưng thực tế không NH nào dám giữ một lượng ngoại tệ chiếm đến 30% vốn sở hữu của mình.
Trong hai tuần qua từ 7-10 đến 21-10 tỷ giá VND/USD bắt đầu giảm mạnh, việc nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ đồng nghĩa với sự thua lỗ. Vì vậy, phần lớn các NH hiện nay không lấy tiền đồng mua ngoại tệ rồi cho vay, mà chủ yếu chọn giải pháp tăng lãi suất huy động USD. Giải pháp lấy tiền đồng mua ngoại tệ rồi cho vay chỉ được thực hiện khi phải đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cấp thiết của bạn hàng. Như vậy, giải quyết bài toán thừa và thiếu ngoại tệ vẫn đang là bài toán khó cho các NH.
Do các doanh nghiệp Việt Nam chỉ yếu dùng đồng USD trong thanh toán nên mỗi khi tỉ giá biến động đều ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nên việc có những công cụ tài chính giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro về tỉ giá là hết sức cần thiết.
2.2.Thị trường chứng khoán
Các nhà hoạch định, chuyên gia kinh tế và những người chơi chứng khoán nghiệp dư hoặc đơn giản là một người dân cũng đều thấy rằng “ Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua (cuối năm 2006 đầu năm 2007) phát triển quá nhanh và đầy biến động, đánh dấu một năm quan trọng trong sự trở mình đầy biến động của kinh tế nước nhà.
Bắt đầu ra mắt và hoạt động trên thị trường Việt Nam, cho đến nay TTCK đã trải qua 7 năm hoạt động, tuy nhiên chỉ thực sự rầm rộ và đáng kể, sôi động nhất thì phải kể đến năm vừa qua, đặc biệt là những tháng cuối của năm 2006. Chỉ số của thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 85% trong hai năm 2004- 2005 và tăng vọt 145% vào năm 2006. Nhưng trong 6 tháng đầu của năm 2007 chỉ số này chỉ tăng được 35%. Phân tích kỹ hơn, có thể thấy rằng vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2- 2007, chỉ số của thị trường chứng khoán Việt Nam trong vòng một tuần lễ đã tăng gần 100 điểm từ 974.76 vào ngày 26-01-2007 nhẩy vọt lên đến 1,074.55 vào ngày 02-02-2007. Trong 2