Hoàn Thiện Quy Định Pháp Luật Về Hội Thẩm Nhân Dân

Tuy vậy, đến nay có thể thấy việc nhận thức, đánh giá, quy định về chế định hội thẩm vẫn chưa thật đầy đủ. Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương chỉ rò “Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền và công tác cải cách tư pháp chưa thực sự đúng đắn; còn có tư tưởng cho rằng, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng giống như các cơ quan hành chính nhà nước, đã hình thành ổn định và đang vận hành bình thường;…” và “Việc nghiên cứu xác định cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp chưa được quan tâm đúng mức; nhiều vấn đề lý luận cơ bản về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân chưa được làm rò”. Chính vậy nên mặc dù đã trở thành những nguyên tắc hiến định, nhưng “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp chưa được xây dựng hoàn chỉnh, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ; chất lượng cán bộ tư pháp chưa đồng đều, còn một bộ phận không nhỏ cán bộ yếu kém cả về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật chưa cao; thiếu khách quan, vô tư, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp” [2, tr.121].

Về phía quần chúng nhân dân, do chưa thấy hết được vai trò của người đại diện cho mình tham gia xét xử và từ thực tế, họ cho rằng hội thẩm tham gia cho đủ lệ bộ của tòa án. Nhất là khi dự phiên tòa, công chúng thấy một số vị hội thẩm thụ động, lúng túng nên càng có ấn tượng về tính hình thức của chế định hội thẩm. Đối với hội thẩm, ngoài những vị tham gia chủ động, tích cực còn có những vị quá thụ động. Cũng có thể do chưa tính toán hết những yếu tố tác động đến tổ chức và hiệu quả hoạt động của hội thẩm, nên cho đến nay, pháp luật chưa chính thức giao cho cơ quan nào quản lý thống nhất đội ngũ hội thẩm của các TAND. Thậm chí, tên gọi “hội thẩm” hay “HTND”, “hội thẩm TAND” hiện vẫn thể hiện khác nhau ở nhiều văn bản; nội dung quy định về hội thẩm còn nằm rải rác ở nhiều nơi, chưa được hệ thống hóa… Không ít ý kiến cho rằng, hội thẩm tham gia xét xử trong các vụ án hình sự còn mang nặng hình thức, vai trò “quan tòa” rất mờ nhạt, hình ảnh các hội

thẩm không rò nét trong “vai” đại diện của nhân dân. Đối với HTND trong TTHS, mặc dù có những đặc trưng riêng (Xem tiểu mục 2.1.2.2), nhưng quan niệm, nhận thức và quy định không có gì khác so với HTND khi tham gia xét xử các vụ án dân sự, hành chính.

Để khắc phục điều này, thời gian tới, cùng với việc làm sâu sắc, quy định đầy đủ, kịp thời hơn về chế định HTND, các tổ chức, cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, đưa ra những quy định, hướng dẫn một cách rò ràng về chế định HTND trong chế độ ta. Có thể tổ chức các hội thảo, nghiên cứu chuyên đề để đánh giá về chế định HTND cũng như việc quy định và áp dụng mô hình tổ chức xét xử có HTND trong TTHS. Cần coi đây là một trong những biểu hiện riêng có, mang tính ưu việt trong nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời được xác định là một trong những vấn đề nổi bật cần tập trung làm rò trong Chiến lược cải cách tư pháp hiện nay và trong mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Từ chỗ xác định tầm quan trọng, ý nghĩa của việc quy định hội thẩm tham gia xét xử, cần tiến hành điều chỉnh, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến chế định HTND để có các quy định phù hợp, sát với yêu cầu thực tế và xu hướng phát triển. Song song với đó, cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giới thiệu một cách toàn diện, có hệ thống về chế định này. Việc tăng cường tuyên truyền, giải thích quy định của pháp luật, hoạt động của HTND cần diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức khác nhau; đối tượng hướng tới không chỉ đối với người dân, mà còn với các cơ quan, tổ chức có liên quan, trước hết là các cơ quan, người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Làm tốt công tác này sẽ giúp cho việc nhận thức, sự phối hợp, hỗ trợ cho hoạt động của HTND được hiệu quả hơn. Đối với người dân khi đã hiểu rò về vai trò, chức năng của HTND, họ sẽ sự ủng hộ, thêm tin tưởng về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cũng như công việc của HTND.

Tuyên truyền, giải thích pháp luật cũng cần được tăng cường đối với chính đội ngũ HTND. Trong đó, bao gồm những chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta nói chung, cũng như pháp luật về hình sự, TTHS và những quy định liên quan đến chế định HTND. Tuyên truyền, giải thích pháp luật ở đây còn là việc chú trọng đến việc cập nhật thông tin, đường lối xét xử nói chung và trong việc áp dụng quy định pháp luật khi xét xử các vụ án hình sự. Điều này sẽ

giúp cộng đồng xã hội và mỗi HTND có nhận thức đầy đủ, rò ràng hơn về vai trò, trách nhiệm của HTND, nhất là với HTND trong TTHS.

4.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về hội thẩm nhân dân

Từ kết quả nghiên cứu lý luận ở Chương 2, thực tiễn quy định và thi hành pháp luật về HTND ở Chương 3 của luận án, cũng như để đáp ứng các yêu cầu đặt ra, việc hoàn thiện pháp luật về chế định hội thẩm nói chung và HTND trong TTHS nói riêng là hết sức cấp thiết. Trong đó cần hướng vào các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, cần sớm ban hành Luật Hội thẩm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, vấn đề quyền con người và trước các yêu cầu mới đang đòi hỏi hệ thống pháp luật cần được quan tâm điều chỉnh, hoàn thiện. Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta đã có bước tiến vượt bậc, hàng chục bộ luật liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội đã được xây dựng, thậm chí có nhiều bộ luật được bổ sung, sửa đổi nhiều lần. Trong khi chế định HTND được xác định là một trong những biểu hiện riêng có, giữ vai trò hết sức quan trọng trong nhà nước pháp quyền hiện vẫn chưa thực sự được chú trọng, trải qua hơn 70 năm qua đến nay các quy định vẫn nằm rải rác ở nhiều văn bản, gây không ít khó khăn cho việc áp dụng thực hiện.

Nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy định một cách đồng bộ, thống nhất của chế định HTND nói chung và HTND trong TTHS nói riêng, rất cần có luật riêng về hội thẩm ở Việt Nam. Luật Hội thẩm được xây dựng và ban hành không những pháp điển hóa, hệ thống hóa các quy định hiện nay về chế độ hội thẩm, mà còn là việc làm cần thiết thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay - 17

Luật Hội thẩm sẽ mang tính bao quát, quy định một cách toàn diện về các vấn đề liên quan đến hội thẩm trong tố tụng, trong đó cần tập trung vào những nội dung chính như:

- Những quy định chung về hội thẩm (vai trò, vị trí, chức năng,…)

- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của hội thẩm

- Điều kiện, tiêu chuẩn; thủ tục, quy trình lựa chọn, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm

- Quan hệ của hội thẩm (HTND, hội thẩm quân nhân)

- Quản lý, giám sát hoạt động hội thẩm

- Cơ chế, chính sách bảo đảm hoạt động cho hội thẩm…

Để Luật Hội thẩm được ban hành, TAND tối cao sớm nghiên cứu, phối hợp với các ban ngành bám sát chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, rà soát các văn bản pháp luật, tham khảo các mô hình tố tụng tiến bộ, đánh giá các điều kiện thực tế của Việt Nam để đề xuất với Quốc hội trong chương trình xây dựng pháp luật. Trong đó, cần sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung để có sự đồng bộ với các quy định trong Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật TTHS năm 2015 và các bộ luật, văn bản pháp lý khác.

Thứ hai, chỉnh sửa, bổ sung các quy định nhằm nâng cao vai trò của hội thẩm nhân trong tố tụng hình sự

Trong Luật Hội thẩm, ngoài việc kế thừa các quy định hiện nay, cần làm rò, điều chỉnh, bổ sung một số nội dung mới. Cụ thể, bên cạnh các nguyên tắc xét xử có hội thẩm; thẩm phán và hội thẩm độc lập khi xét xử, trong vụ án hình sự (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn), có thể có 2 phương án: thứ nhất, nếu giữ nguyên thành phần HĐXX như hiện nay (2 HTND, 1 thẩm phán; 3 HTND, 2 thẩm phán hoặc tăng thêm thành phần HTND trong HĐXX), khi đó HTND và thẩm phán hoàn toàn ngang quyền nhau trong suốt quá trình xét xử vụ án; thứ hai, tăng số lượng HTND (như đề xuất ở mục 4.2.3 hoặc theo mô hình bồi thẩm đoàn), khi đó HTND chỉ tham gia xét xử và quyết định bị cáo có tội hay không có tội, còn việc định tội danh, hình phạt và các trách nhiệm khác do thẩm phán quyết định. Về các thủ tục lựa chọn, bầu HTND nên mở rộng thành phần tham gia so với hiện nay, theo hướng công khai để những người có đủ điều kiện được ứng cử, nhận đề cử để HĐND địa phương bầu ra theo từng nhiệm kỳ và không duy trì 2 nhiệm kỳ liên tiếp nhau. Để đảm bảo khách quan nên thay vì chánh án TAND chỉ định HTND tham gia xét xử mỗi vụ án bằng cách lựa chọn ngẫu nhiên HTND. Mặt khác, để phiên tòa diễn ra nghiêm túc, nâng cao trách nhiệm của HTND khi xét xử vụ án hình sự, cần quy định bổ sung thủ tục tuyên thệ khi hội thẩm được bầu và trước khi xét xử mỗi vụ án. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể và cơ chế bảo vệ đối với hội thẩm và người thân của họ khi họ làm nhiệm vụ; công tác quản lý, giám sát, khen thưởng, kỷ luật hội thẩm; trách nhiệm pháp lý của hội thẩm. Song song với đó, luật cần bổ sung,

quy định cụ thể theo hướng tăng mức xử lý, chế tài đối với những trường hợp hội thẩm sai phạm, các hành vi ngăn cản, can thiệp vào việc thực thi nhiệm vụ hội thẩm; xác định cụ thể hơn về quyền, trách nhiệm của hội thẩm khi xét xử và trong hoạt động tố tụng; những yêu cầu cơ bản khi phân công, thực hiện nhiệm vụ hội thẩm thuộc các lĩnh vực, loại án khác nhau,…

Đối với HTND trong TTHS, bên cạnh những quy định chung, cần xác định rò hơn về điều kiện, trách nhiệm và việc bảo đảm khả năng xét xử, tiến hành tố tụng của hội thẩm.

Trong khi chờ xây dựng và ban hành luật về hội thẩm, TAND tối cao cần tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật, tổ chức đánh giá về thực tiễn hoạt động của hội thẩm và là đầu mối để tham mưu, đề xuất với y ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội và trong phạm vi quyền hạn của mình phối hợp cùng với các cơ quan chức năng khác cho hủy bỏ, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung các quy định hiện nay cho phù hợp với yêu cầu thực tế.

4.2.3. Hoàn thiện quy định, áp dụng thực hiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và điều kiện, tổ chức hội thẩm nhân dân

Thứ nhất, về các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

Pháp luật nước ta hiện nay quy định khi xét xử HTND ngang quyền thẩm phán, nhưng việc thực hiện những quyền đó ở thẩm phán và hội thẩm thực tế không giống nhau, như phân tích ở mục 3.3.1. Để khắc phục tình trạng này cần có những quy định cụ thể, rò ràng hơn về điều kiện, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi thành viên trong HĐXX, nhất là đối với HTND ở từng nội dung công việc, từng giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án. Làm sao để những người tiến hành tố tụng, mỗi hội thẩm phải nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình để thực hiện đúng nhiệm vụ được giao trong quá trình tố tụng và tại mỗi phiên tòa.

Đối với nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đến nay, chưa có một tổng kết nào để khẳng định, kiến thức pháp lý của hội thẩm đến mức nào là đủ để họ thể hiện được sự độc lập của mình và càng không thể đòi hỏi họ đạt các tiêu chuẩn giống như thẩm phán. Xét về quy định và hoạt động thực tế, hội thẩm rất khó thực hiện được nguyên tắc độc lập xét xử.

Kết quả khảo sát, trả lời câu hỏi “Để phát huy vai trò đại diện nhân dân tham gia xét xử các vụ án hình sự thực sự hiệu quả nên theo mô hình?” đối với hai mô hình lựa chọn đại diện nhân dân tham gia xét xử phổ biến hiện nay là lựa chọn ngẫu nhiên hay bầu theo nhiệm kỳ, có tới 70% ý kiến cho rằng nên “Lựa chọn ngẫu nhiên (như bồi thẩm)”, chỉ có 17% đồng ý với mô hình “Như hiện nay (bầu theo nhiệm kỳ)” và 13% có “Ý kiến khác” (Biểu đồ 4.4, Phụ lục, tr.14). Việc đa số các ý kiến cho rằng “Lựa chọn ngẫu nhiên” một mặt phản ánh sự thiếu tin tưởng, kém hiệu quả của hình thức lựa chọn HTND cũng như thực tế HTND khi tham gia xét xử, mặt khác còn cho thấy cách thức, quy trình, năng lực thể hiện của HTND trong xét xử vụ án hình sự hiện nay cần được điều chỉnh.

HTND là người sinh sống và làm việc cùng với cộng đồng nên rất dễ bị tác động, chịu áp lực khi tham gia xét xử vụ án hình sự. Chưa kể, do điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ, cơ chế bảo vệ đối với hội thẩm và người thân của họ hiện vẫn chưa rò ràng, khó có thể đảm bảo để họ yên tâm khi thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, do các quy định về trách nhiệm của hội thẩm khi tham gia xét xử mà vụ án bị phát hiện oan, sai, án bị hủy, sửa, ra sao vẫn chưa cụ thể cũng khiến hội thẩm không chú tâm và thực sự có trách nhiệm để đưa ra quan điểm, ý kiến khách quan.

Từ đó, có ý kiến cho rằng nên áp dụng thực hiện mô hình bồi thẩm đoàn trong xét xử hình sự giống như ở Mỹ, Úc,… và thực tế ở Liên bang Nga, sau khi Liên Xô sụp đổ đã áp dụng xen kẽ mô hình HTND và bồi thẩm đoàn khi xét xử án hình sự. Mới đây còn có ý kiến nêu ra việc hình thành hội thẩm đoàn gồm 7, 9 người đối với vụ án hình sự rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng (cho ý kiến về việc bị cáo có tội hay không có tội), cùng với đó HĐXX sẽ xét xử theo các nguyên tắc như quy định hiện nay; HTND có độ tuổi từ 27 tuổi trở lên giống như thẩm phán [4]. Tuy nhiên, điều này cũng chưa hợp lý và không phù hợp với các yêu cầu chung, bởi như vậy sẽ tăng thêm số lượng HTND trong mỗi vụ án và việc xét xử sau đó (quyết định về hình phạt, trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác vẫn do HĐXX gồm thẩm phán và HTND). Thực tế mô hình hội thẩm ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu và mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận; các yếu tố lịch sử, văn hóa ở Việt Nam mang những đặc trưng riêng (quan hệ anh em, họ tộc, yếu tố tình cảm rất được coi trọng, trong khi hội thẩm là người địa phương); ý thức pháp luật và mặt bằng

dân trí cơ bản vẫn chưa đồng đều ở mỗi vùng miền, địa phương;… Nên nếu áp dụng chế độ bồi thẩm đoàn hay hội thẩm đoàn ở thời điểm hiện nay sẽ phải sửa đổi từ Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan đến TTHS và làm xáo trộn, ảnh hưởng đến một số quan điểm, việc tổ chức thực hiện và gây tốn kém cho Nhà nước, xã hội. Do đó, mô hình bồi thẩm đoàn hoặc xen kẽ giữa bồi thẩm đoàn (hội thẩm đoàn) và chế định HTND trong xét xử ở Việt Nam vẫn cần tiếp tục có thời gian nghiên cứu và áp dụng khi đảm bảo các điều kiện thực tế.

Căn cứ vào thực tiễn ở Việt Nam (Chương 3) và qua kinh nghiệm ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ (Xem tiểu mục 2.5.4)12,… tác giả luận án đề xuất nên tăng số HTND lên 4 hoặc 5 trong HĐXX thay vì 2 và 3 HTND như hiện nay. Cụ thể, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự gồm 1 thẩm phán và 4 HTND, trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX gồm 2 thẩm phán và 5 HTND. Như

vậy, luật TTHS sẽ quy định như sau: “Trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn, HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự gồm 4 hội thẩm và 1 thẩm phán, đối với vụ án nghiêm trọng hoặc phức tạp HĐXX gồm 5 hội thẩm và 2 thẩm phán. Hội thẩm tham gia xét xử vụ án và cùng thẩm phán quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội. Quyết định bị cáo có tội hay không có tội được HĐXX bỏ phiếu kín và có giá trị khi có từ 4/5 phiếu trở lên với HĐXX gồm 5 người và từ 5/7 phiếu trở lên với HĐXX gồm 7 người. Thẩm phán quyết định về hình phạt, trách nhiệm dân sự của vụ án”.

Sở dĩ đề xuất vậy là vì: 1) tăng tỷ lệ HTND trong HĐXX thể hiện tính đại diện nhân dân tham gia xét xử là cần thiết, phù hợp với xu thế chung; 2) tăng HTND và bỏ phiếu kín với tỷ lệ đồng thuận cao (4/5 hoặc 5/7) đảm bảo dân chủ hơn, thể hiện ý chí độc lập của các thành viên trong HĐXX, hạn chế sự tác động từ bên ngoài; 3) HTND ở nước ta do được lựa chọn, bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, kèm theo đó là các quy định về kiến thức pháp lý, sự hiểu biết xã hội và các yêu cầu khác nên cơ bản có năng lực xét xử và phải chịu sự quản lý, ràng buộc bởi các biện


12 Khi xét xử các vụ án hình sự nghiêm trọng (tòa đại hình) các nước quy đinh: ở Pháp gồm 9 bồi thẩm cho phiên tòa sơ thẩm, 12 bồi thẩm cho phiên tòa phúc thẩm; Italia tòa đại hình gồm 2 thẩm phán và 6 thẩm phán nghiệp dư; Nhật Bản gồm 3 thẩm phán chuyên trách và 6 thẩm phán không chuyên; Hàn Quốc gồm 9 bồi thẩm; Đài Loan gồm 3 thẩm phán và 6 hội thẩm,… Về phán quyết, hầu hết các nước đều quy định bồi thẩm, hội thẩm chỉ tham gia quyết định bị cáo có tôi hoặc không có tội. Trường hợp thẩm phán và hội thẩm (thẩm phán không chuyên) cùng xét xử thì quyết định của HĐXX có hiệu lực ở Pháp và Đài Loan là 2/3 trở lên,…

pháp chế tài; 4) HTND chỉ tham gia quyết định bị cáo có tội hay không có tội vì HTND không phải là người xét xử chuyên nghiệp và không chịu sự quản lý, các yếu tố về chuyên môn giống như thẩm phán; 5) quy định như đề xuất cơ bản vẫn đảm bảo các nguyên tắc, quan điểm về chính sách pháp luật; không gây xáo trộn, phù hợp với truyền thống, điều kiện kinh tế - văn hóa của Việt Nam; góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế hiện nay và có sự tiếp cận với mô hình TTHS của các nước. Tỷ lệ bỏ phiếu của HĐXX 4/5 và 5/7 là do các vụ án hình sự luôn cần sự thận trọng, khách quan và đồng thuận cao, ở vụ án phức tạp (HĐXX gồm 5 HTND, 2 thẩm phán) chỉ cần 5/7 vì lúc này thẩm phán còn được thể hiện vai trò như đại diện của người dân.

Thứ hai, về điều kiện, tổ chức hội thẩm nhân dân

Theo quy định hiện hành, trên cơ sở đề nghị của chánh án TAND địa phương (cấp huyện, cấp tỉnh), y ban MTTQ Việt Nam địa phương sẽ lựa chọn, giới thiệu để HĐND cùng cấp bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND. Quy định này được duy trì hàng chục năm qua, tuy nhiên trong điều kiện hiện nay cho thấy có nhiều điều không còn phù hợp, hiệu quả, bởi khó tránh tình trạng cảm tính và mang nặng tính cơ cấu, hình thức. Vì các lẽ đó, cần nghiên cứu để điều chỉnh, thay đổi quy định về tiêu chuẩn, quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND. Cụ thể:

Tiêu chuẩn lựa chọn HTND: Nên quy định và áp dụng, người được lựa chọn để bầu làm HTND cùng với các điều kiện về phẩm chất đạo đức, yếu tố sức khỏe,... phải có trình độ học vấn từ trình độ trung cấp pháp luật trở lên hoặc sau khi được bầu phải trải qua một lớp bồi dưỡng trình độ pháp lý từ 2 đến 3 tháng trước khi tham gia danh sách lựa chọn xét xử vụ án hình sự. Về độ tuổi, HTND nên thay vì từ 21 tuổi như hiện nay, cần nâng lên ít nhất từ 23 tuổi, vì HTND nước ta tham gia xét xử trực tiếp, ở độ tuổi này họ mới có thể học xong chương trình chuyên nghiệp và có sự trải nghiệm nhất định. Thực tiễn trong thời gian qua hầu như không có HTND nào dưới 23 tuổi, hơn nữa đây cũng là độ tuổi mà trước đây pháp luật nước ta quy định đối với HTND (giai đoạn 1959-1980) và hiện nhiều nước, vùng lãnh thổ cũng áp dụng (Pháp, Đài Loan: 23 tuổi; Nga: 25 tuổi; Trung Quốc: 28 tuổi,…). Bên cạnh đó, cần tăng số lượng HTND có kiến thức chuyên môn thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế xét xử.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí