Đảm Bảo Các Chế Độ, Chính Sách Cho Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự

không đầy đủ nhiệm vụ. Cụ thể, HTND khi vi phạm quy định, bên cạnh các biện pháp xử lý hành chính, hình sự còn bị phạt tiền và phải bồi thường giống như những người tiến hành tố tụng khác.

4.2.7. Đảm bảo các chế độ, chính sách cho hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự

Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định bảo vệ thẩm phán, hội thẩm và thân nhân của họ rất chặt chẽ. Đơn cử, tại Cộng hòa liên bang Nga, Bộ luật hình sự nước này quy định: Xâm hại tính mạng (giết người hoặc giết người không thành) đối với thẩm phán, hội thẩm, hoặc bất kỳ người nào liên quan đến hoạt động tư pháp… cũng như thân nhân của họ, liên quan đến việc xem xét các vụ án hoặc tài liệu tại tòa án hoặc hoạt động điều tra, với mục đích cản trở hoạt động hợp pháp của người đó hoặc trả thù cho hoạt động đó, sẽ bị phạt tù có thời hạn 12 tới 20 năm với sự quản chế cho đến hai năm hoặc tù chung thân hoặc tử hình (Điều 295 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga). Điều 296, Điều 297 của Bộ luật này cũng quy định các hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi không tôn trọng tòa án, đe dọa giết hoặc đe dọa gây thương tích, phá hoại hoặc làm hư hỏng tài sản liên quan đến thẩm phán, bồi thẩm đoàn hoặc người khác tham gia công tác xét xử cũng như thân nhân của họ…. Trong khi đó, Điều 391 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 quy định: Người nào tại phiên tòa, phiên họp mà thóa mạ, xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của thẩm phán, hội thẩm, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác hoặc người tham gia phiên tòa, phiên họp hoặc có hành vi đập phá tài sản… thì bị phạt tiền đến 100.000.000 đồng… hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm. Nếu hành vi dẫn đến phải dừng phiên tòa, phiên họp; hành hung thẩm phán, hội thẩm… có thể phạt tù đến 3 năm. Quy định như vậy vẫn còn đơn giản và biện pháp chế tài còn khá nhẹ. Để góp phần ngăn chặn những hành vi vi phạm đến hoạt động của tòa án cũng như có biện pháp bảo vệ cán bộ tư pháp nói chung, HTND và người thân của họ nói riêng khi làm nhiệm vụ, pháp luật cần quy định cụ thể với mức xử phạt nặng hơn đối với các cá nhân, tập thể phạm tội liên quan đến lĩnh vực này, giống như quy định của Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga.

Trong các vụ án hình sự, HTND luôn chịu nhiều áp lực, đôi khi từ chính các tổ chức, cơ quan quản lý họ hoặc từ bên ngoài. Trường hợp HTND không tuân theo “gợi ý” của cấp trên, như từ tổ chức Đảng, thủ trưởng đơn vị quản lý, chánh án TAND,... có thể họ sẽ không được mời tham gia xét xử các vụ án sau đó hoặc bị xem xét đánh giá về tính tích cực trong phối hợp công tác. Nhiều khi, HTND chịu chi phối bởi dư luận, sự đe dọa từ các thế lực liên quan đến vụ án, thậm chí bị mua chuộc, “chạy án”,... Do đó, cần có sự đánh giá, tổng kết về thực tiễn về hoạt động của HTND một cách thường xuyên, toàn diện. Qua đó phát hiện được những khó khăn, bất cập do cơ chế chính sách, để kịp thời điều chỉnh và giải quyết kịp thời những vướng mắc, yêu cầu thực tế; cần có quy định cụ thể về việc xử lý đối với các trường hợp can thiệp, cản trở hoạt động của HTND; bổ sung hình thức phạt tiền trong các biện pháp xử lý sai phạm đối với những người tham gia tố tụng; xây dựng kế hoạch và chương trình bồi dưỡng, hình thức quản lý, kiểm soát đối với HTND trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng và hoạt động chuyên môn.

Cùng với xác định đúng vai trò, nhiệm vụ của HTND, pháp luật cần quy định để HTND được hưởng các chế độ tương xứng với vị trí, công việc, như nguồn kinh phí hỗ trợ, phương tiện làm việc của HTND, các chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (của hội thẩm không phải là công chức hay công nhân viên). Khi HTND làm nhiệm vụ hội thẩm phải coi đó là hành vi thực thi công vụ; cần có cơ chế đảm bảo để HTND có điều kiện thực hiện tốt nhất để làm nhiệm vụ; có các biện pháp chế tài rò ràng, nghiêm khắc đối với tập thể cá nhân cản trở, can thiệp, gây tổn hại về tinh thần, vật chất đối với HTND và người thân của họ khi làm nhiệm vụ hội thẩm, kể cả các trường hợp diễn ra sau đó có liên quan.

Kinh phí dành cho hội thẩm theo quy định hiện nay là 90.000 đồng/ngày xét xử cũng như đọc hồ sơ vụ án là quá thấp, không phù hợp với thực tế. Chưa kể, các cơ chế bảo đảm quyền lợi, việc bảo vệ hội thẩm vẫn chưa rò hoặc áp dụng thiếu đồng bộ nên thực tế không ít trường hợp hội thẩm khi được phân công tham gia phiên tòa đã từ chối vì các lý do này. Cần xác định hội thẩm khi làm nhiệm vụ là công tác đặc thù và quy định tăng mức tiền bồi dưỡng hiện nay cho HTND khi tham gia xét xử hoặc nghiên cứu hồ sơ cao hơn mặt bằng thu nhập chung và mức thu

nhập mà HTND đang hưởng; xem xét để có chế độ phụ cấp hàng tháng cho HTND, có cơ chế phù hợp về công tác phí, các chi phí cần thiết cho hội thẩm khi làm nhiệm vụ. Bởi, hoạt động xét xử không phải là công việc thường xuyên, mỗi khi HTND được mời tham gia xét xử (tiến hành tố tụng) họ phải dành thời gian, chịu sự tác động nhiều vấn đề và làm ảnh hưởng đến công việc thường nhật. Đồng thời có thể căn cứ vào tính chất, mức độ phức tạp của loại án, vụ án và việc thực hiện nhiệm vụ (ví dụ chia thành loại vụ việc A, B, C) để hình thành các mức hưởng thù lao khác nhau dành cho thẩm phán và HTND. Đây còn là một trong những căn cứ để đánh giá về năng lực, kết quả hoạt động của thẩm phán, HTND hàng năm, cả nhiệm kỳ.

Theo quy định, hội thẩm cùng với thẩm phán trực tiếp xét xử từ đầu đến cuối vụ án, nhưng trong khi thẩm phán thực hiện việc mặc áo choàng (áp dụng từ ngày 01/01/2018), còn trang phục của HTND đến nay đang thực hiện theo Nghị quyết số 214/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của UBTVQH). Mới đây TAND tối cao đã có kế hoạch thiết kế trang phục cho hội thẩm và có ý kiến cho rằng HTND cũng cần có quy định về trang phục phù hợp khi xét xử. Tuy nhiên, tác giả luận án nghiêng về quan điểm để HTND sử dụng trang phục phù hợp, không nên mặc áo choàng giống như thẩm phán vì như vậy dễ khiến HTND mất đi hình ảnh, vai trò đại diện nhân dân trong xét xử.

4.2.8. Một số giải pháp khác

Hiện nay pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể về những việc hội thẩm không được làm, các tiêu chuẩn về đạo đức, xã hội và hành vi giao tiếp, ứng xử cần thiết đối với mỗi hội thẩm... Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa có căn cứ chính thức đánh giá từng trường hợp cụ thể trong quá trình khen thưởng, kỷ luật, bãi nhiệm hội thẩm, thậm chí, có trường hợp hội thẩm vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan xét xử nhưng chưa có cơ sở pháp lý để xử lý một cách kịp thời.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Theo quy định hiện hành thì HTND do HĐND địa phương bầu ra và có nhiệm kỳ 5 năm theo nhiệm kỳ của HĐND, như vậy cũng có những điểm chưa hợp lý. Bởi, hoạt động xét xử, cùng với năng lực chuyên môn, điều kiện làm việc còn cần có thời gian tích lũy kinh nghiệm và qua quá trình đào tạo, bồi dưỡng lâu dài,

khoa học mới đạt được trình độ và kỹ năng xét xử tốt nhất. Nếu như hiện nay, việc tiến hành bầu HTND theo nhiệm kỳ HĐND nhưng không kèm theo các tiêu chí về kiến thức pháp lý, chuyên môn và cơ chế ràng buộc, phát huy khả năng của hội thẩm thì không những sẽ gây lãng phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng và cơ cấu tổ chức HTND dễ bị xáo trộn, không ổn định mà về mặt nào đó nó còn làm ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của HTND. Do đó, cần có các tiêu chí cụ thể từ khi lựa chọn, bầu HTND và nên mở rộng thành phần, đối tượng người làm HTND theo hướng công khai và thời gian làm nhiệm vụ hội thẩm không nên kéo dài (không làm HTND hai nhiệm kỳ liên tiếp) để có thêm nhiều người làm nhiệm vụ hội thẩm và tránh những vấn đề tiêu cực có thể xẩy ra.

Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay - 19

Về số lượng hội thẩm, theo quy định tại Thông tư số 01/2004/TANDTC- UBTWMTTQVN ngày 01/3/2004 hướng dẫn chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu HTND thì đối với HTND cấp tỉnh cứ 2 thẩm phán TAND cấp tỉnh thì có 3 HTND cấp tỉnh, nhưng tổng số hội thẩm của một TAND cấp tỉnh không dưới 20 người và không nhiều hơn 100 người, còn đối với HTND cấp huyện cứ 1 thẩm phán TAND thì có 2 hội thẩm TAND cấp huyện, nhưng tổng số hội thẩm của một TAND cấp huyện không dưới 15 người và không nhiều hơn 50 người. Quy định như vậy có nghĩa số hội thẩm của một TAND cấp huyện tối đa chỉ là 50 người và bằng 1/2 số hội thẩm tối đa của TAND cấp tỉnh (100 người) [123]. Trong khi đó số lượng vụ việc xét xử sơ thẩm (xét xử có hội thẩm tham gia) ở TAND cấp huyện lại nhiều hơn rất nhiều so với TAND cấp tỉnh. Chưa kể, theo xu hướng chung cũng như đề xuất thì HTND sẽ tăng lên về số lượng, tỷ lệ và năng lực, kiến thức chuyên môn để xét xử trong mỗi vụ án, do đó sẽ cần mở rộng thành phần, số lượng HTND.

Một số quy định của pháp luật về chế định hội thẩm hiện còn chồng chéo hoặc không còn phù hợp với thực tế. Ví dụ như việc thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ đối với HTND. Tại Điều 9 Pháp lệnh về thẩm phán và HTND năm 2002 quy định “Chánh án TAND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, hội thẩm”, nhưng tại Điều 26 Quy chế tổ chức và hoạt động của hội thẩm TAND lại quy định “Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nghiệp

vụ cho hội thẩm tòa án cấp mình và cấp dưới”. Có lẽ do căn cứ vào quy định của Điều 26 Quy chế trên nên từ năm 2006, kinh phí bồi dưỡng cho nghiệp vụ cho hội thẩm chỉ cấp cho TAND cấp tỉnh mà không cấp cho các TAND cấp huyện.

Theo Hiến pháp năm 2013 thì TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử và là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp, tuy nhiên tại khoản 4 Điều 326 lại quy định “Trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện trưởng viện kiểm sát cấp trên trực tiếp”. Cụ thể, trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố, nhưng nếu HĐXX thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện trưởng viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Điều này xem ra không thỏa đáng. Bởi, đành rằng trong giai đoạn xét xử, kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nhưng cùng với quá trình tố tụng và xét xử tại phiên tòa, trong đó có việc tôn trọng kết quả tranh tụng, thậm chí HĐXX còn có thẩm quyền khởi tố vụ án hoặc yêu cầu viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm (khoản 4 Điều 153 BLTTHS năm 2015), viện kiểm sát vẫn có quyền kháng nghị và vụ án vẫn còn có thể xét xử ở giai đoạn phúc thẩm. Đặc biệt, các nguyên tắc chung xác định rất rò về vai trò, nhiệm vụ của TAND, HĐXX đối với vụ án hình sự. Điều này cho thấy có sự mâu thuẫn so với tinh thần Hiến pháp năm 2013 và vô hình chung làm triệt tiêu nguyên tắc “HĐXX xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”, vai trò của HĐXX trong đó có HTND không được tôn trọng như quy định. Để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời đảm bảo đúng vai trò, nhiệm vụ của TAND, HĐXX và HTND trong TTHS cần xem xét để sửa khoản 4 Điều 326 BLTTHS năm 2015 như sau: “Trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này.

Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì HĐXX vẫn giải quyết vụ án theo quy định và thông báo với viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện trưởng viện kiểm sát cấp trên trực tiếp”.

Pháp luật quy định chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX thực hiện việc tuyên án bằng cách đọc bản án, nhưng luật không quy định đọc toàn văn hay đọc một phần nào đó của bản án. Hiện nay, các tòa án nước ta tuyên án bằng cách đọc nguyên văn toàn bộ bản án, tuy nhiên thực tế có nhiều bản án hình sự dài, có những nội dung không cần thiết hoặc lặp lại nhiều nội dung đôi khi chỉ là thủ tục. Hơn nữa pháp luật cũng quy định, chủ toạ phiên tòa hoặc thành viên khác của HĐXX (trong đó có HTND) đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo (Điều 327 BLTTHS năm 2015). Trong khi HTND tuy là thành viên HĐXX, nhưng ở góc độ xã hội là thể hiện vai trò đại diện của nhân dân nên nếu là người đọc bản án và tham gia giải thích việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo có thể làm giảm đi sự nghiêm trang của phiên tòa và có cảm giác không phù hợp. Do đó, có thể quy định khi tuyên án, tòa án chỉ cần đọc toàn bộ phần quyết định của bản án và sửa Điều 327 BLTTHS năm 2015 thành “Chủ toạ phiên tòa hoặc một thẩm phán thành viên khác của HĐXX đọc bản án. Trường hợp xét xử kín thì đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo”.

Mặt khác, hiện nay ở các địa phương đã hình thành các Đoàn hội thẩm, do đó cần tạo điều kiện để các Đoàn hội thẩm thực sự là tổ chức xã hội nghề nghiệp mang tính tự quản cao và sớm hình thành Liên đoàn hội thẩm chung của cả nước, trong đó các Đoàn hội thẩm cấp tỉnh, cấp huyện là thành viên. Sự thống nhất có tổ chức của hội thẩm sẽ góp phần tích cực vào việc quản lý, hoạt động, trao đổi nghiệp vụ, kinh nghiệm xét xử cho HTND. Đồng thời nghiên cứu để sớm xây dựng Bộ quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp của HTND. Bộ quy tắc này không chỉ gồm các quy định mang tính chuẩn mực trong hoạt động, quan hệ của hội thẩm, mà còn góp phần bổ sung cho các quy định pháp luật, là cơ sở, căn cứ để quản lý, bảo vệ quyền lợi, đánh giá khen thưởng kỷ luật và xử lý đối với HTND.

Các quy định về HTND hiện nay còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật với hiệu lực pháp lý, lĩnh vực điều chỉnh khác nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho việc xác định địa vị pháp lý của HTND cũng như trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của HTND; quá trình giải quyết các chế độ thù lao, bồi dưỡng nghiệp vụ, bảo vệ HTND và người thân của họ khi làm nhiệm vụ,… Do vậy, TAND tối cao cần quan tâm tới việc rà soát, tổ chức rút kinh nghiệm về công tác xét xử, trao đổi nghiệp vụ với các tòa án địa phương trong việc áp dụng pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng và thống nhất pháp luật. Thông qua các hội nghị, hội thảo và phối hợp với các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền để đánh giá hoạt động của HTND, TAND tối cao có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cũng như để điều chỉnh hoặc đề xuất sửa đổi các quy định, hoạt động liên quan nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả của HTND trong TTHS.

Kết luận Chương 4

Phân tích, đánh giá về quy định và thực tiễn áp dụng cơ chế đại diện nhân dân tham gia xét xử và trước những yêu cầu đặt ra cho thấy, để phát huy hiệu quả vai trò của HTND trong TTHS hiện nay ở nước ta, cần sớm được nghiên cứu, có các giải pháp điều chỉnh đối với chế định HTND nói chung và HTND trong TTHS nói riêng. Cụ thể:

Thứ nhất, cần làm rò cơ chế HTND trong TTHS từ quan điểm, nhận thức, đến quy định và áp dụng để thấy được vai trò của HTND tham gia xét xử và tiến hành tố tụng hiện nay ở Việt Nam. Theo lý luận, thì HTND là người đem hơi thở của cuộc sống vào trong quá trình phán quyết các bản án, giúp cho việc xét xử các vụ án hình sự được công bằng, hiệu quả, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hơn nữa, việc lựa chọn và thực hiện mô hình HTND trong tố tụng ở Việt Nam còn thể hiện bản chất của chế độ, kế thừa các giá trị văn hoá lịch sử truyền thống và mang tính đặc trưng với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta. Bên cạnh đó, còn căn cứ vào các yêu cầu đặt ra đối với công tác xét xử và HTND trong TTHS để chọn lọc, phát huy kinh nghiệm tiến bộ, phù hợp với xu thế hội nhập, phát triển hiện nay.

Thứ hai, việc tăng cường nghiên cứu, hoàn thiện quy định của pháp luật về chế định HTND nói chung và HTND trong TTHS nói riêng cần được tiến hành đồng bộ, căn bản, mang tính ổn định, khả năng thực thi cao. Trong đó, phải rà soát, phân tích, đánh giá về ưu điểm, những hạn chế, thiếu sót kể cả về quy định lẫn thực tiễn thực hiện để có thể sớm ban hành Luật Hội thẩm. Luật Hội thẩm ra đời không những phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay, khi tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta đã phát triển, nhiều lĩnh vực hoạt động tư pháp khác (tòa án, kiểm sát, luật sư,…) từ lâu đã có luật, trong khi chế định HTND vẫn chỉ được quy định trong Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm TAND năm 2002 và nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác, mà còn đáp ứng yêu cầu nâng cao vai trò HTND, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.

Thứ ba, cần chú trọng và có giải pháp hữu hiệu trong việc lựa chọn mô hình tố tụng, có sự quan tâm để bồi dưỡng, tăng cường năng lực, kinh nghiệm xét xử, nhất là kiến thức về pháp luật cho hội thẩm. Làm sao để sự tham gia của hội thẩm vào hoạt động xét xử thực sự hiệu quả, nhưng không phải thẩm phán hóa và làm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022