những đối tác có quan tâm tới việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, tới những lĩnh vực mũi nhọn, vào khu vực DN vừa và nhỏ.
Thứ tư, về nguồn nhân lực (kỹ thuật, kinh doanh và quản lý): đây là định hướng quan trọng trong phát triển doanh nghiệp công nghiệp và là định hướng quyết định cho việc phát triển “đón đầu”. Do đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành, thí nghiệm... cho các trường đào tạo; điều chỉnh kế hoạch đào tạo gắn với nhu cầu sử dụng và tăng số lượng công nhân kỹ thuật và thợ lành nghề, chú trọng đào tạo lao động cho ngành nghề mới, ngành công nghệ cao, một số ngành mũi nhọn; đào tạo nhân lực phục vụ vùng nông thôn, miền núi; khuyến khích cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý từ thành thị về công tác vùng nông thôn, miền núi như tăng lương trong thời hạn công tác, không phải chuyển đổi hộ khẩu... Không xuất khẩu lao động có trình độ khi trong nước còn thiếu.
Thứ năm, phát triển các doanh nghiệp công nghiệp chủ đạo, cùng với việc tiếp tục phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động song phải mở rộng các mối quan hệ để nâng cao giá trị gia tăng, sẽ hỗ trợ phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động có kỹ năng như sản xuất phần mềm, thiết bị gia đình, chế biến thực phẩm cao cấp .v.v...để hình thành những ngành công nghiệp chủ đạo của Việt Nam.
Thứ sáu, đa dạng hoá các doanh nghiệp
Xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp không phân biệt loại hình và thành phần nhằm tạo nên một hệ thống doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao.
- Doanh nghiệp nhà nước: duy trì tỷ lệ thích hợp doanh nghiệp nhà nước trong những ngành kinh tế then chốt. Nhà nước có chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển lành mạnh hiệu quả và bền vững.
- Các doanh nghiệp có đầu tư vốn nước ngoài (FDI): Cần tiếp tục đổi mới các chính sách khuyến khích đầu tư, tài chính, ngân hàng, mậu dịch, tiền tệ, hệ thống thuế…, để có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhiều hơn nữa.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME): luôn đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, Chính phủ cần có những chương trình đặc biệt khuyến khích và hỗ trợ hơn nữa cho phát triển SME trong công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 21
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 22
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 23
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 25
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 26
- Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 27
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
- Tập đoàn công nghiệp mạnh: Cần xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, nắm giữ một số ngành công nghiệp chủ đạo, có sự tham gia cổ phần của nhà nước, của tư nhân và nước ngoài, của các Công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư..., làm xương sống cho nền kinh tế và chiếm thị phần chi phối trong khu vực và thế giới.
Thứ bảy, về khoa học công nghệ, đây có thể coi là định hướng quan trọng để đưa đến thành công. Khoa học công nghệ phải hướng vào phục vụ các doanh nghiệp công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh, nhằm chuyển dịch từ khu vực giá trị gia tăng thấp lên khu vực có giá trị gia tăng cao hơn; hướng vào một số ngành công nghiệp cơ bản. Đồng thời tập trung tìm bí quyết công nghệ riêng, để sau 2010 chuyển cơ bản từ công nghệ sử dụng nhiều lao động sang công nghệ sử dụng nhiều chất xám, công nghệ thân thiện môi trường. Chú trọng tiếp thu công nghệ của thế giới với phương châm sử dụng - chuyển đổi nhanh, hiệu quả.
Nhanh chóng hình thành thị trường công nghệ trong nước.
Thứ tám, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nhằm phát triển doanh nghiệp công nghiệp chế biến và thị trường nông thôn; hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng có điều kiện khó khăn; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng tăng tỉ trọng làm công nghiệp và dịch vụ. Có kế hoạch tiếp nhận sự chuyển dịch tự nhiên của các ngành sản xuất giữa các vùng trong nước.
Thứ chín, định hướng khác, như là nâng cao sức cạnh tranh lớn nhất cho sản phẩm, cho thị trường, cho tài chính cho các dự án công nghiệp; Tổ chức, quản lý và cung cấp thông tin cũng cần được thực hiện một cách đồng bộ và tích cực.
3.2. Giải pháp thúc đẩy hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
3.2.1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp công nghiệp.
3.2.1.1. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác định giá doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu ra công chúng
Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp công nghiệp khi phát hành cổ phiếu ra công chúng hiện nay còn nhiều vướng mắc, do vậy, để thúc đẩy được hoạt động tài chính của doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán
thì cần phải tháo gỡ được những vướng mắc trong công tác định giá doanh nghiệp:
Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thông qua phương pháp chiết khấu dòng tiền. Thông tư 126 ngày 22/12/2004 của Bộ tài chính quy định phương pháp chiết khấu dòng tiền chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp "có ngành nghề kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, tin hoặc và chuyển giao công nghệ có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân 5 năm liền kề cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 10 năm trở lên". Như vậy, phạm vi áp dụng của phương pháp này bị thu hẹp theo các điều kiện về ngành nghề kinh doanh. Mặt khác, với tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 2000 đến nay, thì có thể nói là khó tìm ra được doanh nghiệp nào đáp ứng được quy định về tỷ suất lợi nhuận này.
Trong khi đó việc xác định giá trị doanh nghiệp bằng phương pháp tài sản ròng không tính hết được các giá trị tiềm năng của doanh nghiệp, mà chỉ căn cứ trên cơ sở các tài sản thực có tại thời điểm xác định giá trị, việc hạn chế áp dụng phương pháp chiết khâu dòng tiền sẽ một phần ảnh hưởng đến độ chính xác của giá trị doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, có thương hiệu và thị phần ổn định trên thị trường. Do vậy, theo ý kiến của tác giả nên mở rộng phạm vi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền và doanh nghiệp có thể áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để thể hiện được một khoảng dao động về giá trần – giá sàn của doanh nghiệp, giúp cho các nhà đầu tư có một cách nhìn khách quan hơn trước khi quyết định đầu tư. Trong khoảng giá trần – giá sàn, doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể chỉ ra một giá hợp lý nhất, phản ánh giá trị chính xác của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của nhà đầu tư.
Cùng với việc áp dụng đồng thời hai phương pháp trên, nên kết hợp với phương pháp đấu giá công khai qua các công ty chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán. Điều này sẽ mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp cũng như đảm bảo tính minh bạch và khuyến khích các nhà đầu tư.
Thứ hai, để tiến hành áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, cần thiết lập hệ thống báo cáo bắt buộc và lưu trữ cơ sở dữ liệu về báo cáo và phương pháp định giá áp dụng cho công ty đã định giá. Cơ sở dữ liệu này sẽ là tài liệu vô giá trong việc tổng hợp và phân tích để đưa ra các tỷ lệ chiết khấu, giả
thiết và giả định của phương pháp chiết khâu dòng tiền. Tạo cơ chế để có được những báo cáo xác định giá trị hoàn hảo theo phương pháp chiết khấu dòng tiền như tăng phí định giá cho các công ty áp dụng phương pháp này. Việc này tốn nhiều công sức hơn nhưng đổi lại sẽ giúp cho công ty huy động được nhiều vốn hơn do thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn.
Thứ ba, hiện nay, có ba phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đã được công nhận rộng rãi trên thế giới, mỗi phương pháp được áp dụng cho từng loại đối tượng doanh nghiệp với mục đích đảm bảo sự hợp lý, công bằng, chính xác cho tất cả các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, đó là: Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp thị trường (Phương pháp thị trường là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên giá cả thị trường); Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền; Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản ròng.
Hiện nay, ở Việt Nam mới quy định sử dụng hai phương pháp chiết khấu dòng tiền và phương pháp xác định giá trị tài sản ròng, trong thời gian tới, khi mà các loại thị trường nguyên vật liệu đầu vào của quá trình sản xuất, thị trường tài chính của Việt Nam phát triển, nên bổ sung thêm phương pháp thị trường. Trong thẩm định giá, phương pháp thị trường là một phương pháp rất hữu ích, cho độ chính xác cao và rất linh hoạt.
Thứ tư, trong phương pháp so sánh giá thị trường, tài sản tương đương dùng để so sánh xác định lại nguyên giá không nhất thiết phải cùng nước sản xuất như quy định trong Thông tư 126. Nhà thẩm định giá có thể sử dụng các nguồn thông tin rất sẵn có trên thị trường (có thể khác về nước sản xuất, khác về công suất,…) để xác định giá trị của tài sản mục tiêu. Vấn đề ở đây là nhà thẩm định giá bằng kiến thức và kinh nghiệm công tác chuyên môn của mình phải xác định được hệ số điều chỉnh thích hợp đối với các tài sản có xuất xứ khác nhau. Tuy nhiên, cần bổ sung thêm nội dung xác định giá trị còn lại của tài sản trong trường hợp nguyên giá không xác định được theo giá thị trường, thì xác định theo mặt bằng giá tài sản cũ tương đương trên thị trường, giảm thiểu việc tính theo nguyên giá trên sổ kế toán.
Thứ năm, nâng cao năng lực và chất lượng của người làm công tác định giá doanh nghiệp và những nhà quản lý. Hiện nay, cán bộ làm công tác định giá
doanh nghiệp của ta phần lớn chưa được qua các lớp đào tạo chuyên sâu, các cơ quan quản lý Nhà nước và ở các tổ chức tư vấn về định giá.
Thứ sáu, xây dựng Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam làm chuẩn mực chung để căn cứ vào đó các tổ chức làm nhiệm vụ thẩm định giá doanh nghiệp có cơ sở thực hiện, và các cơ quan quản lý Nhà nước có một thước đo chung trong công tác định giá một doanh nghiệp.
Thứ bảy, công khai các báo cáo thẩm định giá doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng trước khi tổ chức đấu giá trên sàn giao dịch chứng khoán để tất cả các nhà đầu tư tiềm năng trong xã hội có thể tham gia, tránh tình trạng thông thầu, ép giá, hoặc cổ phiếu chỉ tập trung vào một số ít nhà đầu tư lớn, còn dân chúng khó tham gia.
3.2.1.2. Giải pháp xây dựng phương án phát hành cổ phiếu hiệu quả.
Trước hết, cần nhấn mạnh rằng tính hiệu quả của phương án phát hành cổ phiếu nên được hiểu theo nghĩa rộng, đầy đủ và cao nhất của nó, nghĩa là phải đem lại tác động tích cực đồng thời cho cả 3 phía: doanh nghiệp, nhà đầu tư và Nhà nước (theo nghĩa nền kinh tế nói chung), cụ thể:
- Doanh nghiệp phải bán được hết cổ phiếu với giá cao hơn giá khởi điểm, thu hút được nhiều nhà đầu tư, cổ đông chiến lược mới, tạo động lực mới cho phát triển, củng cố thương hiệu và nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nhà đầu tư (người mua cổ phiếu) phải tiếp cận thuận lợi, đầy đủ và giá rẻ các thông tin liên quan đến cổ phiếu và phương án phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, cũng như có điều kiện và cơ hội thực hiện việc mua đủ số lượng cổ phiếu theo giá mong muốn.
- Nhà nước phát huy được vai trò tích cực trong chức năng quản lý nhà nước của mình, đảm bảo sự ổn định, phát triển lành mạnh của TTCK và có thể thu hồi phần vốn của mình một cách nhanh gọn, đầy đủ nhất khi CPH DNNN.
Như vậy, để một phương án phát hành cổ phiếu doanh nghiệp đạt hiệu quả cao thì cần phải thực hiện một số nhân tố sau:
Thứ nhất, cần thu thập, xử lý các thông tin về doanh nghiệp, thị trường và môi trường pháp lý có liên quan một cách đầy đủ, cập nhật và chính xác nhất như một tiêu đề quan trọng để tổ chức, xây dựng phương án phát hành cổ phiếu.
Thứ hai, Xác định rõ mục tiêu phát hành cổ phiếu, thời điểm phát hành cổ phiếu khi TTCK thuận lợi, lựa chọn phương thức phát hành cổ phiếu phù hợp. Giá cổ phiếu hợp lý, phù hợp với giá trị doanh nghiệp không những giúp doanh nghiệp dễ dàng huy động vốn mà nó còn đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư mua cổ phiếu cân bằng hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư giữ gìn uy tín cho doanh nghiệp.
Lượng cổ phiếu phát hành phù hợp với quy mô và hiệu quả mở rộng sản xuất kinh doanh cũng góp phần không nhỏ giúp doanh nghiệp thành công trong việc huy động vốn. Các nhà đầu tư liệu có yên tâm khi những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ lại đưa ra những kế hoạch huy động vốn gấp nhiều lần quy mô vốn hiện có. Do vậy, kế hoạch huy động vốn của doanh nghiệp cần được xây dựng một cách kỹ lưỡng tỉ mỉ phù hợp với quy mô của doanh nghiệp.
Thứ ba, cần xác định đúng và trúng thời điểm, mục tiêu phát hành cổ phiếu, xác định rõ giá trị khởi điểm (mệnh giá cổ phiếu), phương thức phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần thiết). Thực tế cho thấy, trong 3 phương thức là: chào bán trực tiếp, chào bán qua đấu thầu và chào bán qua tổ chức bảo lãnh phát hành, thì phương thức chào bán qua đấu thầu luôn được đánh giá là lựa chọn tốt nhất của đa số doanh nghiệp phát hành chứng khoán.
Thứ tư, Lựa chọn tốt tổ chức bảo lãnh phát hành, hoạt động bảo lãnh phát hành cũng đóng vai trò quan trong đối với sự thành công trong việc phát hành cổ phiếu huy động vốn. Quá trình phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp được công ty chứng khoán bảo lãnh có nghĩa là có đơn vị đứng ra bảo đảm chất lượng cho quá trình phát hành. Thực tế, thời gian qua hoạt động bảo lãnh phát hành tỏ ra rất hạn chế và thiếu chuyên nghiệp, nguyên nhân phát sinh từ cả phía doanh nghiệp lẫn tổ chức bảo lãnh phát hành. Doanh nghiệp luôn muốn bán cổ phiếu với giá cao mà nhiều khi quên đi giá trị thực của doanh nghiệp do đó bản thân các tổ chức tư vấn cũng không thể mạo hiểm nhận bảo lãnh phát hành với giá theo mong muốn của doanh nghiệp.
Thứ năm, Đa dạng hình thức phát hành cổ phiếu trong điều kiện thị trường khó khăn có thể phát hành cổ phiếu ưu đãi để huy động vốn khi doanh nghiệp đủ khả năng tài chính có thể đề nghị mua lại số cổ phiếu ưu đãi này để giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp. Hoặc doanh nghiệp có thể phát hành cổ
phiếu kèm theo các quyền lợi khác để thu hút vốn. Ví dụ, với doanh nghiệp bất động sản có thể huy động vốn kèm theo quyền mua nhà ở với giá gốc …
Thứ sáu, Lựa chọn đối tác chiến lược các điều kiện cũng như giá phát hành cho đối tác chiến lược cần dung hòa lợi ích và bảo đảm lợi ích của các cổ đông khác có như vậy mới không xảy ra tranh chấp làm ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp trong những lần phát hành cổ phiếu tiếp theo.
Thể hiện trách nhiệm với cổ đông bằng việc sớm hoàn thiện các thủ tục đăng ký niêm yết cổ phiếu phát hành thêm để giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư.
Kết quả huy động vốn được công bố rõ ràng, hiện nay theo quy định tổ chức phát hành phải thông báo cho UBCK về kết quả phát hành cổ phiếu tuy nhiên, đứng về góc độ trách nhiệm với cổ đông doanh nghiệp cần công bố thông tin về kết quả huy động vốn cho cổ đông.
Thứ bảy, Cần tổ chức tốt các hoạt động thông tin tuyên truyền về doanh nghiệp, phương án phát hành và các thông tin cần thiết khác. Đặc biệt, việc đăng tải các thông tin về phương án phát hành trên các phương tiện thông tin thích hợp và với thời lượng dài có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động quảng bá, doanh nghiệp và thu hút các nhà đầu tư tiềm năng...
3.2.1.3. Giải pháp xây dựng hình thức trả cổ tức hiệu quả.
Theo Luật Doanh nghiệp, hình thức trả cổ tức tại các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK nói riêng, có thể thực hiện trả cổ tức cho cổ đông bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, việc đề xuất trả dưới hình thức nào trong thời điểm nào cho hợp lý luôn làm đau đầu cho các doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp công nghiệp sẽ phải xác định được phương thức trả cổ tức hợp lý nhất để mang lại hiệu quả cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Với đặc trưng là các doanh nghiệp công nghiệp luôn là đơn vị cần nguồn vốn dài hạn, lãi suất thấp. Quy mô vốn lớn, nhu cầu tăng vốn là thiết yếu để đạt đến hiệu quả theo lý thuyết lợi thế kinh tế theo quy mô, vì vậy, doanh nghiệp có thể lựa chọn các giải pháp sau:
Thứ nhất, có thể ưu tiên trả cổ tức bằng cổ phiếu, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu không mang lại lợi ích cho cổ đông vì hình thức này không khác gì thưởng cổ phiếu (chia tách cổ phiếu). Cổ đông sẽ nhận được nhiều cổ phiếu hơn nhưng giá thị trường của cổ phiếu sẽ bị điều chỉnh giảm để đảm bảo nguyên tắc công
bằng với các cổ đông mua vào ngày hoặc sau ngày giao dịch không hưởng quyền trả cổ tức bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, vốn điều lệ công ty sẽ tăng lên và số lượng cổ phiếu lưu hành sẽ nhiều hơn. Luồng tiền mặt không hề bị di chuyển ra khỏi doanh nghiệp. Do đó, nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế các doanh nghiệp niêm yết lại đang rất cần vốn, công ty có thể thông qua Đại hội đồng cổ đông để trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức bằng tiền, vì khoản lợi nhuận giữ lại đó để tái đầu tư sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Tuy nhiên, việc trả cổ tức bằng cổ phiếu được các chuyên gia khuyến nghị nên áp dụng cho những doanh nghiệp đang làm ăn tốt và có thị giá cổ phiếu cao.
Thứ hai, Có thể lựa chọn hình thức trả bằng tiền mặt nếu như doanh nghiệp không thực sự khan hiếm về vốn, khi đó doanh nghiệp nên thực hiện trong chu kỳ đỉnh của dòng tiền doanh số (thời kỳ luồng tiến lớn nhất), để doanh nghiệp có thể cân đối nguồn vốn tốt hơn. Việc trả cổ tức bằng tiền mặt ở mức cao có mặt tích cực là tạo sức ép cho ban lãnh đạo doanh nghiệp phải hoạt động năng động, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn, đồng thời có điều kiện đào thải những nhà quản trị kém. Tuy nhiên, việc trả cổ tức bằng tiền mặt ở mức cao sẽ hạn chế khả năng tích tụ vốn của doanh nghiệp để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tỷ trọng vốn vay ngân hàng có thể tăng lên và gây mất cân đối các nguồn trả nợ nếu doanh nghiệp không thận trọng trong việc vay vốn hoặc nếu không thì việc đầu tư sẽ không được mạnh dạn.
Thứ ba, có thể kết hợp hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu kèm phát hành quyền mua tăng vốn điều lệ. Giải pháp này tăng tính hấp dẫn cho nhà đầu tư và các cổ đông hiện hữu (sau khi thực hiện, giá cố phiểu điều chỉnh giảm kỹ thuật sẽ tăng tính hấp dẫn).
3.2.1.4. Giải pháp nâng cao tính minh bạch về thông tin doanh nghiệp.
Minh bạch thông tin vừa là trách nhiệm vừa là yếu tố thu hút nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào công ty. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện sơ sài việc công bố thông tin. Với góc độ là nhà đầu tư họ không thể yên tâm bỏ vốn vào doanh nghiệp khi mà không biết những thông tin mà doanh nghiệp công bố có đáng tin cậy hay không. Để