Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 27


Thứ ba, Xây dựng và nâng cao văn hóa nhận thức về rủi ro trong doanh nghiệp trong đó có việc đào tạo về quản lý rủi ro trong doanh nghiệp; thiết kế và rà soát quy trình quản lý rủi ro; điều phối các hoạt động chức năng khác nhau có liên quan đến vấn đề quản lý rủi ro trong doanh nghiệp…cũng cần được quan tâm, chú trọng.

Để thiết lập được một hệ thống quản lý rủi ro hoạt động hiệu quả, bên cạnh việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp, bản thân lãnh đạo doanh nghiệp phải cam kết ủng hộ việc triển khai, đảm bảo không tồn tại khái niệm "vùng cấm" trong doanh nghiệp, những khu vực không được tiếp cận đánh giá, kiểm soát. Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải thật sự coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền và đào tạo để xây dựng văn hóa quản lý rủi ro đến mọi đối tượng trong doanh nghiệp.

3.2.2. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.

3.2.2.1. Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến thị trường chứng khoán trước ngưỡng cửa suy thoái của TTCK.

Thứ nhất, mặc dù Luật chứng khoán được ra đời hơn một năm, tạo ra khung pháp lý cao nhất và thống nhất cho hoạt động của thị trường chứng khoán, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua hơn một năm Luật chứng khoán đi vào thực tế, đã bộc lộ một vài hạn chế cần phải chỉnh sửa và bổ sung. Hiện tại, vẫn chưa có quy định, hướng dẫn chi tiết về việc phát hành chứng khoán riêng lẻ của các công ty đại chúng, chào bán và niêm yết chứng khoán của các pháp nhân nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đây là điều luật đã "vênh" với thực tế. Đối với hoạt động chào bán chứng khoán, Luật chứng khoán chỉ quy định điều chỉnh đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng mà chưa quy định về việc chào bán cổ phần riêng lẻ. Hiện nay, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ được điều chỉnh tại Luật Doanh nghiệp năm 2005. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp chưa có quy định cụ thể hướng dẫn hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ mà giao cho Chính phủ hướng dẫn chi tiết, khoản 6 Điều 87 Luật Doanh nghiệp quy định: “Chính phủ quy định hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ”.

Thực tế hiện nay, nhiều công ty cổ phần có nhu cầu phát hành thêm cổ phiếu cho một số ít các nhà đầu tư (theo hình thức phát hành cổ phiếu riêng lẻ) nhưng chưa có văn bản quy định dẫn đến lúng túng và khó khăn trong việc thực


hiện. Ngoài ra, do chưa có văn bản điều chỉnh cụ thể nên hiện tại có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước lợi dụng việc phát hành riêng lẻ để phân phối cổ phiếu ra đại chúng thông qua việc mua đi, bán lại quyền mua cổ phần hoặc phát hành cho một số đối tượng không phù hợp với mục đích thu hút các nhà đầu tư lâu dài và gắn bó quyền lợi với công ty, không đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu của công ty, đặc biệt là các cổ đông nhỏ.

Hiện nay, giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do ngày càng có xu hướng gia tăng, tiềm ẩn nhiều rủi ro do đây không phải là thị trường minh bạch về thông tin và không được vận hành theo một cơ chế thị trường công bằng, trật tự theo quy định của pháp luật. Rủi ro trong thanh toán cũng rất cao vì chủ yếu thực hiện bằng tiền mặt và cơ chế chuyển nhượng chứng khoán trực tiếp dưới hình thức giấy biên nhận giữa các nhà đầu tư với nhau. Do đó, nếu không có biện pháp quản lý thị trường này thì nguy cơ lừa đảo, đổ vỡ là rất lớn và sẽ lan truyền đến thị trường tập trung, đặc biệt là khi thị trường rơi vào giai đoạn giảm giá như hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

Vì vậy, cần sớm ban hành Nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ nhằm hướng dẫn quy định tại Luật Doanh nghiệp, tạo hệ thống pháp lý thống nhất điều chỉnh hoạt động chứng khoán nói chung, sớm đưa hoạt động phát hành riêng lẻ vào khuôn khổ pháp lý, có sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và sự toàn vẹn của thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính là cơ quan được giao nhiệm vụ soạn thảo Nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ, tuy nhiên, hiện tại vẫn đang trong quá trình xây dựng dự thảo và xin ý kiến chỉ đạo của Chính phủ. Để quản lý hoạt động phát hành riêng lẻ cần sớm ban hành Nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ.

Thứ hai, Luật chứng khoán cũng chưa quy định việc phát hành và niêm yết của các công ty 100% vốn nước ngoài. Thực tế thời gian qua đã có công ty 100% vốn nước ngoài thực hiện bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên (dưới 100 người) nhưng sau đó đã được giao dịch trên thị trường OTC. Mặt khác, nhà đầu tư trong trường hợp này sẽ chịu nhiều rủi ro và không được bảo vệ, đồng thời doanh nghiệp cũng không chịu những ràng buộc theo quy định như công ty trong nước. Đã có rất nhiều doanh nghiệp có văn bản đề nghị Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán thành phố Chí Minh quy định về thủ

Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 27


tục pháp lý liên quan đến doanh nghiệp nước ngoài muốn chào bán chứng khoán tại Việt Nam, tuy nhiên hiện nay Luật chứng khoán vẫn chưa quy định.

Thứ ba, để nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán cần phải có những quy định thắt chặt hơn nữa điều kiện thực hiện chào bán và niêm yết của các công ty đại chúng, phải gắn việc phát hành chứng khoán với việc niêm yết, đăng ký giao dịch. Nghị định 14/2007/NĐ-CP cần sớm bổ sung quy định điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng là tổ chức phát hành phải thực hiện niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu trên thị trường tập trung, đồng thời với việc chào bán. Đây là điểm sẽ làm thay đổi hoạt động của thị trường tự do lâu nay. Hạn chế tình trạng phát hành cổ phiếu, chào bán ồ ạt nhưng chưa có mục đích cụ thể, thời gian qua, đã có không ít các doanh nghiệp thực hiện phát hành cổ phiếu, đặc biệt là hoạt động phát hành thêm một cách ồ ạt, phương án sử dụng vốn chưa rõ ràng và thực tế hiệu quả sử dụng phần vốn phát hành chưa cao. Để khắc phục hạn chế này, Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước cần kiến nghị Bộ Tài chính cho phép hướng dẫn hồ sơ chào bán chứng khoán phải bổ sung dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và phương án sử dụng vốn huy động từ công chúng cho dự án đầu tư.

Thứ tư, liên quan đến vấn đề công bố thông tin, minh bạch hóa thị trường, cần phải có quy định cụ thể hơn, bao trùm các đối tượng cần phải công bố thông tin như các định chế tài chính, các tổ chức, cá nhân có liên quan. Tại Singapore, khi một cá nhân có liên quan tới doanh nghiệp (như Ủy viên Hội đồng quản trị) mà có quan hệ kinh tế với bản thân doanh nghiệp đó nhưng với tư cách khác cũng phải công bố thông tin đầy đủ để tránh các trường hợp trục lợi.

Thứ năm, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, giải quyết xung đột giữa các luật:

- Hiện nay đang tồn tại sự bất bình đẳng về nghĩa vụ công bố thông tin giữa các doanh nghiệp niêm yết và các doanh nghiệp không niêm yết, do vậy, để tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp tạo động lực để các doanh nghiệp tích cực tham gia phát hành và niêm yết chứng khoán, cần bổ sung vào Luật doanh nghiệp nghĩa vụ bắt buộc kiểm toán định kỳ bởi các công ty kiểm toán đã được lựa chọn trước đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp.

- Để hạn chế các hoạt động tội phạm trên thị trường chứng khoán, giúp cho hoạt động của thị trường chứng khoán được an toàn cần bổ sung vào Luật


Hình sự các tội danh trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thực tế thời gian qua đã xuất hiện nhiều hoạt động tội phạm mới trên thị trường chứng khoán như: giao dịch nội gián, cò mồi, thực hiện làm giá bất hợp pháp cả trên thị trường tập trung và thị trường OTC, đưa thông tin sai lệch để trục lợi… Tất cả những hoạt động tội phạm này đã gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư, làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán và các hoạt động tài chính của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, để khắc phục hạn chế này cần sớm có quy định chi tiết về việc xử lý các hoạt động tội phạm trên thị trường chứng khoán.

- Xây dựng hành lang pháp lý cho các công ty định mức tín nhiệm, đặc biệt là các quy định liên quan đến vấn đề chất lượng kế toán, kiểm toán, quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu trong trường hợp công ty niêm yết bị phá sản, hoặc thua lỗ nhiều năm phải ngừng giao dịch. Trên thực tế đã xuất hiện tình trạng doanh nghiệp đã bị Công ty kiểm toán từ chối xác nhận kiểm toán toàn phần nhưng sau đó vẫn "làm cách nào đó" có được xác nhận của một công ty kiểm toán khác và đủ tiêu chuẩn niêm yết, hoặc trường hợp của công ty Bông Bạch Tuyết, do thua lỗi nhiều năm, công ty đã bị ngừng hoạt động giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán TPHCM một thời gian đã làm hoang mang cho các nhà đầu tư và ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, cần phải có những quy định cụ thể hơn nữa để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, nâng cao chất lượng của các công ty định mức tín nhiệm, tạo đông lực thúc đẩy năng lực quản trị công ty của đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp, kích thích sản xuất phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia trên thị trường chứng khoán.

- Bổ sung Luật doanh nghiệp các quy định về quản trị công ty, thâu tóm, sát nhập doanh nghiệp, mua lại cổ phiếu, bỏ phiếu tích luỹ nhằm tăng cường tính minh bạch và bảo về quyền lợi cổ đông. Hiện nay quá trình mua bán sát nhập đang diễn ra rất phổ biến và theo dự báo hoạt động này sẽ rất sôi động trong thời gian tới, vì vậy cần sớm hoàn thiện và bổ sung các quy định liên quan đến các hoạt động này.

- Nhanh chóng ban hành và áp dụng Luật thu nhập đối với các khoản thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho


các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường chứng khoán và góp phần nâng cao thu nhập cho ngân sách Nhà nước.

Thứ sáu, sửa đổi hoặc bổ sung các quy định liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán; quy chế hoạt động và cung cấp dịch vụ; các biện pháp kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài.

3.2.2.2. Giải pháp ổn định thị trường chứng khoán trước sự suy thoái của nền kinh tế trong nước.

Thứ nhất, cần thực hiện giải pháp xử lý vấn đề thanh khoản của các ngân hàng để đảm bảo an toàn cho ngân hàng kết hợp với xử lý vấn đề nợ đọng cho vay chứng khoán (cầm cố Repo) và bất động sản trong các ngân hàng thương mại để tránh đổ vỡ cho ngân hàng. Năm 2008, dư nợ cho vay chứng khoán và bất động sản của các ngân hàng đang ở mức rất cao và có nhiều món nợ cho vay chứng khoán đã đến giai đoạn giải chấp vì giá cổ phiếu đã giảm đến 60%. Để tránh tình trạng mất khả năng thanh khoản, gây đổ vỡ cho các ngân hàng, cần phải tổng rà soát và đánh giá lại con số thực chất cho vay đầu tư chứng khoán (cả cầm cố và Repo) cũng như cho vay bất động sản để có hướng xử lý và tháo gỡ dần.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước rà soát lại tổng mức vay tiền gửi ngoại tệ và nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ và kết hợp với Bộ Tài chính rà soát lại tổng mức đầu tư gián tiếp nước ngoài. Trên cơ sở tổng mức dự trữ ngoại hối, có sự đánh giá lại khả năng chống đỡ của nền kinh tế nếu có sự đảo chiều.

Thứ ba, tạm giãn bớt việc thắt chặt tín dụng với thị trường chứng khoán và bất động sản để tránh tác động của việc giảm sút tối đa nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Việc giải chấp chứng khoán cũng cần nên hạn chế trong giai đoạn ngắn hạn. Trong bối cảnh giá chứng khoán liên tục giảm như thời gian qua, việc các ngân hàng đồng loạt tiến hành giải chấp chứng khoán đã làm cho giá cổ phiếu giảm mạnh. Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn trước mắt, các ngân hàng, công ty chứng khoán tạm ngừng giải chấp. Ngân hàng Nhà nước cần hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng thông qua hoạt động tái chiết khấu để tạo thanh khoản cho các tổ chức tín dụng.

Thứ tư, cần phải tăng cường cầu đầu tư nước ngoài, hiện tại vẫn tiếp tục giữ tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam như hiện nay (49%, riêng đối với Ngân hàng là 35%). Tuy nhiên, cần phải


tháo gỡ các thủ tục hành chính (ví dụ như tháo gỡ quy định các ngân hàng nước ngoài mua cổ phiếu của các ngân hàng chưa niêm yết phải xin phép Ngân hàng Nhà nước) để tạo ra sức cầu đối với khối các ngân hàng và từ đó tác động chung đến tâm lý thị trường. Mặt khác, trong giai đoạn tới, cũng cần xem xét mở rộng tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, theo dự báo của các nhà phân tích chứng khoán với việc mở rộng room cho các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là một nhân tố quan trọng để hỗ trợ mức cầu của thị trường, từ đó sẽ tác động tích cực đến thị trường, tạo sự tăng trưởng ổn định và bền vững cho thị trường chứng khoán.

Thứ năm, cần nghiên cứu điều chỉnh biên độ sao cho hợp lý và có tác động tích cực đến thị trường. Trong thời gian qua, Bộ Tài chính (Uỷ ban chứng khoán Nhà Nước) đã giảm biên độ để ngăn chặn đà sụt giảm chứng khoán và hoạt động giải chấp cầm cố, ổn định tâm lý nhà đầu tư. Việc giảm biện độ giao dịch cũng đã có tác động thiết thực trong việc ngăn chặn sự sụt giảm sâu, tuy nhiên, phải thừa nhận rằng đây chỉ là biện pháp mang tính chất tình thế. Do vậy, trong thời gian trước mắt, vẫn tạm thời duy trì biên độ như hiện nay thêm một thời gian, vì diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường chưa có sự cải thiện đủ sức tạo ra sự hồi phục ổn định. Khi thị trường có dấu hiệu ổn định lại sẽ từng bước nới biên độ để tạo sức hẫp dẫn cho thị trường.

Thứ sáu, cần phải duy trì sự hỗ trợ thị trường của Tổng công ty vốn nhà nước (SCIC): Trong thời gian qua, Tổng công ty vốn nhà nước đã phát huy vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phục hồi của thị trường chứng khoán vào thời điểm suy thoái của thị trường thông qua việc mua, bán một số loại cổ phiếu có tác động đến thị trường, do vậy, cần tiếp tục giao cho SCIC thực hiện can thiệp mua bán một số loại cổ phiếu có chất lượng tốt để đầu tư đồng thời góp phần can thiệp thị trường theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ mang tính hỗ trợ thị trường, không phải là giải pháp bình ổn thị trường.

3.2.2.3. Giải pháp tạo lập hàng hoá trên thị trường chứng khoán.

Thứ nhất, Phối hợp phát triển thị trường tài chính, Chính phủ cần có một chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trên cơ sở chiến lược phát triển thị trường tài chính, Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ nhằm tạo nên một cơ cấu lãi suất phù hợp trên thị trường, từ lãi


suất tiền gửi, lãi suất tiền vay, lãi suất trái phiếu chính phủ đến lợi tức của các cổ phiếu phải hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.

Thứ hai, Thực hiện các giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần vì quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là một kênh cung cấp hàng hoá quan trọng cho thị trường chứng khoán, vì vậy, cần thực hiện ngay các giải pháp sau:

- Xác định mục tiêu chính của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là thông qua chuyển đổi hình thức sở hữu để tạo động lực và cơ chế kinh doanh năng động cho doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế.

- Mở rộng phạm vi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, hạn chế tối đa những lĩnh vực mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối.

- Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác phổ biến và tuyên truyền chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về cổ phần hoá.

- Đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước như xây dựng, chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá và tổ chức các dịch vụ hoặc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các công việc cần thiết cho cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.

- Tạo khung pháp lý đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của các công ty cổ phần, cần chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về Công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. Trong quá trinh đổi mới, việc chuyển đổi từ mô hình công hữu sang mô hình đa sở hữu đang đặt ra nhiều vấn đề về sở hữu. Cần phải có hệ thống chính sách đảm bảo bình đẳng, thống nhất quyền lợi cụ thể, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao giữa các thành phần kinh tế như quyền bình đẳng trong việc thu thuế, quyền cạnh tranh, quyền vay vốn.

- Có những chính sách hỗ trợ thông tin, tín dụng, thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước tại các công ty cổ phần. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn về vấn đề này, tuy nhiên, do đây là lĩnh vực tương đối mới, lại nhạy cảm nên vẫn cần có những điều chỉnh cần thiết nhằm hoàn thiện hơn nữa cơ chế chính sách quản lý vốn nhà nước tại công ty cổ phần, cụ thể như sau:


+ Cần phân định rõ ràng tiêu chuẩn, quyền lợi và nghĩa vụ của người đại diện sở hữu cổ phần Nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần Nhà nước tại công ty cổ phần. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm đối với người đại diện.

+ Cần có quy định rõ cơ chế phối hợp giữa những người quản lý trực tiếp vốn Nhà nước tại một doanh nghiệp nhằm tránh việc các cá nhân quản lý trực tiếp phần vốn Nhà nước có ý kiến biểu quyết khác nhau, đảm bảo lợi ích của Nhà nước trong công ty cổ phần.

+ Tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho hoạt động của các công ty cổ phần trong quá trình phát triển trong điều kiện hội nhập WTO, như đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, điều chỉnh vai trò và trách nhiệm của Nhà nước, thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các hội hay hiệp hội ngành nghề.

Thứ ba, cần tiếp tục hoàn thiện, cải tiến các phương thức phát hành trái phiếu. Hiện nay, phương thức phát hành trái phiếu còn nhiều hạn chế như phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, cơ chế phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước… Các phương thức phát hành cần phù hợp với các nhà đầu tư khác nhau nhằm thu hút rộng rãi hơn nữa các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Khi phát hành trái phiếu Chính phủ theo phương thức đấu thầu qua SGDCK (cũng như qua Ngân hàng Nhà nước) cần hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan. Để tăng tính hẫp dẫn của trái phiếu nên áp dụng lãi suất thả nổi và có thể áp dụng những quy định linh hoạt trong cơ chế thanh toán lãi như lãi trả trước, lãi nhập gốc.

Thứ tư, Có những ưu đãi để khuyến khích các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hoá và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển thành công ty cổ phần đủ điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng và thực hiện niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, vì đây là các doanh nghiệp tương đối lớn và có uy tín trên thị trường chứng khoán. Việc các ngân hàng, các tổng công ty thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra một lượng cung hàng hoá khá lớn và có chất lượng cho thị trường chứng khoán.

3.2.2.4. Giải pháp phát triển các tổ chức kinh doanh và hỗ trợ thị trường.

a. Tăng cường và nâng cao chất lượng của các công ty chứng khoán.

Xem tất cả 256 trang.

Ngày đăng: 01/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí