Hoạt động quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà nội - thực trạng và giải pháp - 2

công dân “tự nguyện” nộp thuế thì Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật pháp.

Tuy nhiên, để chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì những quy định của pháp luật cũng không được mang tính tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong luật thuế thường xác định trước các yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.


1.1.1.2. Chức năng của thuế trong nền kinh tế thị trường

Chức năng của thuế do bản chất của thuế quyết định và thể hiện ra ngoài thông qua vai trò của nó trong hoạt động thực tiễn. Mặt khác, vì thuế là công cụ trong tay Nhà nước nên chính chức năng của Nhà nước chi phối, quyết định chức năng của thuế. Hiện nay, hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất quan điểm rằng thuế có 3 chức năng chủ yếu sau:

(i) Thuế có chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Ngân sách Nhà nước:

Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà nước. Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.

Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội.

Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Thuế dần trở thành nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường.

Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khác, quá trình huy

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực và chức năng điều tiết kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau.

(ii) Thuế có chức năng điều tiết và ổn định hóa nền kinh tế:

Hoạt động quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà nội - thực trạng và giải pháp - 2

Trong nền kinh tế thị trường, thuế giữ vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh kinh tế vì chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, quan hệ cung - cầu, cơ cấu đầu tư và sự phát triển cũng như suy thoái của nền kinh tế của mỗi quốc gia.

Để đảm nhận vai trò điều tiết và ổn định hóa nền kinh tế, theo quan điểm của Keynes, Chính phủ phải gia tăng đầu tư để tận dụng hiệu ứng số nhân xảy ra đối với việc làm và sản lượng. Để làm được điều này đòi hỏi Chính phủ phải có trong tay một nguồn lực nhất định. Và thuế, với chức năng huy động nguồn thu, tỏ ra là một công cụ đầy hiệu lực để đảm nhận nhiệm vụ này.

Tuy nhiên, chức năng điều tiết và ổn định hóa nền kinh tế không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước sử dụng các nguồn lực (cấu thành chủ yếu từ thuế) để đầu tư, phát triển nền kinh tế thông qua các chính sách đầu tư, mà còn là việc kết hợp đồng bộ chính sách thuế với các chính sách kinh tế - tài chính khác.

Trên thực tế, vai trò điều tiết, kích thích kinh tế của thuế được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:

Trước hết, thuế được sử dụng như là công cụ khuyến khích việc hình thành cơ cấu ngành, vùng hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Với vai trò này, Nhà nước sử dụng các cơ chế ưu đãi hơn giành cho các vùng miền cần khuyến khích phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước sử dụng ngay nguồn thu từ thuế để đầu tư xây dựng cơ bản (còn gọi là đầu tư tạo đà), qua đó thu hút và khuyến khích đầu tư theo chiến lược phát triển ngành, vùng đã đề ra.

Thuế được sử dụng như là một công cụ để hướng dẫn tiêu dùng, kích thích tiết kiệm, tích lũy vốn để tái sản xuất mở rộng. Với mục tiêu này, Nhà nước đánh thuế lên hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng theo các mức thuế suất khác nhau, để người dân hạn chế tiêu dùng các sản phẩm có mức thuế xuất cao do giá thành cao, kích thích người dân gia tăng tiết kiệm. Đồng thời, Nhà nước cũng miễn, giảm thuế đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư, chấp nhận khấu hao nhanh,… cho doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất.

Thuế được sử dụng như là công cụ đầy hiệu lực để thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước. Chính sách thuế ưu đãi hơn được áp dụng đồng thời với việc sử dụng nguồn thu từ thuế để hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu cho những ngành hàng có lợi thế trong cạnh tranh. Bên cạnh đó là việc thiết lập hàng rào thuế quan thích hợp để có thể bảo hộ một số ngành hàng triển vọng song còn non trẻ.

Thuế còn có tác động đến nền kinh tế thông qua cơ chế điều chỉnh thuế suất nhằm ổn định nền kinh tế. Thuế được sử dụng như là công cụ để điều chỉnh các chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ suy thoái, Nhà nước sẽ giảm thuế để kích cầu, từng bước ổn định và phục hồi nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển quá nóng, Nhà nước có thể tăng thuế để hạn chế thu nhập khả dụng của toàn xã hội, tạo nguồn lực dự trữ an toàn để đề phòng sự suy thoái kinh tế. Qua đó, nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế được giữ vững.

Chính sách thuế là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất nhiều đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các dự án đầu tư; thuế thu nhập cá nhân đánh trên thu nhập của chủ đầu tư; thuế tiêu thụ đặc biêt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,… ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Nhìn chung, các chủ đầu tư đều muốn đầu tư ở các nước có các loại thuế thấp.

Trong thực tiễn, để phát huy tốt và đầy đủ các chức năng của thuế thì cần phải lưu ý là: trước hết, thuế chỉ nên thu từ nguồn thuế - tức là nguồn thu nhập được tạo ra, chứ không phải từ gốc thuế - tức là sức sản xuất của nền kinh tế bao gồm: con người, vốn, tài sản,… Sau nữa, để thuế phát huy tốt chức năng điều tiết và ổn định hóa nền kinh tế, cần kết hợp một cách đồng bộ, linh hoạt chính sách thuế với các chính sách kinh tế - tài chính khác như chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá,…

(iii) Thuế góp phần điều hòa thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập:

Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng thêm sâu sắc. Bởi vậy, sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước là đặc biệt hữu ích, trong đó thuế là một công cụ có vai trò quan trọng.

Chức năng điều hòa thu nhập xã hội của thuế phần nào được thực hiện thông qua các loại thuế gián thu như thuế giá trị giá tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu. Các loại thuế này đánh thuế cao vào các loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của các công ty, cá nhân có thu nhập cao hơn so với mức bình quân trong xã hội. Song công cụ trực tiếp thực hiện công bằng xã hội phải là thuế trực thu mà điển hình là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.


1.1.2. Quản lý thuế

1.1.2.1. Quan niệm về quản lý thuế và cơ chế quản lý thuế

Quản lý thuế:

Quản lý thuế là hoạt động của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại diện để tổ chức, điều hành hệ thống quản lý thu thuế nhằm động viên nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước theo những quy định của pháp luật về thuế.

- Quản lý thuế quan tâm trước hết tới việc thực thi chính sách thuế. Để thực hiện tốt công tác quản lý thuế cần có một chính sách thuế hợp lý, một cơ chế quản lý đồng bộ và có hiệu quả. Sau khi chính sách thuế được hoạch định và được thông qua, chính sách đó được thực thi trong thực tế.

- Quản lý thuế có vai trò quyết định trong việc đưa chính sách thuế vào cuộc sống. Hoạt động quản lý thuế là sự tác động có tổ chức, tuân theo những quy tắc nhất định và mang tính quyền lực Nhà nước. Đây cũng có thể coi là hoạt động quản lý hành chính – kinh tế trong lĩnh vực thuế.

Cơ chế quản lý thuế:

Cơ chế là tổng thể các yếu tố có quan hệ hữu cơ, tác động vào sự vận hành của một hệ thống nhất định theo những mục tiêu nhất định. Về cơ bản, cơ chế bao gồm những yếu tố thể hiện những tác động điều khiển của chủ thể quản lý đối với hệ thống như: hình thức, phương pháp, công cụ,... và những yếu tố tự phát tác động theo quy luật vận hành khách quan của hệ thống.

Cơ chế quản lý thuế có nội hàm hẹp hơn bởi nó là chỉ là quy định của cơ quan thuế đến quá trình hoạt động của hệ thống thuế nhằm đạt đến một mục tiêu, yêu cầu cụ thể của Nhà nước về huy động nguồn lực tài chính, và điều tiết kinh tế.

Vì thế, hầu hết các nhà kinh tế học đều đồng tình với quan điểm: Cơ chế quản lý thuế là tổng thể các phương thức, các quy trình quản lý của cơ quan thuế

tác động vào hệ thống quản lý thuế theo những mục tiêu ngành thuế đã đặt ra trong từng thời kỳ nhất định.

1.1.2.2. Mục tiêu và nguyên tắc của quản lý thuế

Với những chức năng, vai trò quan trọng nêu trên của thuế và hệ thống thuế, quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý tài chính Nhà nước. Công tác quản lý thuế có các mục tiêu cơ bản sau:

Huy động đầy đủ, kịp thời số lượng thu cho ngân sách Nhà nước.

Phát huy tốt nhất chức năng của thuế trong nền kinh tế.

Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và cá nhân.

Để đạt được những mục tiêu trên, công tác quản lý thuế cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Các cơ quan, tổ chức và cá nhân đều phải có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.

Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 01/07/2007 và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.


1.1.2.3. Nội dung của cơ chế quản lý thuế hiện hành của Việt Nam

Gần hai chục năm qua (từ năm 1990 đến nay), hệ thống thuế ở Việt Nam đã qua 3 bước cải cách với mục tiêu là: (1) kích thích mọi thành phần kinh tế tăng cường đầu tư phát triển; (2) là nguồn thu cơ bản của NSNN; (3) góp phần thực hiện công bằng xã hội và cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, (4) nâng cao tính pháp lý của thuế và làm cho thuế trở thành công cụ cơ bản của Nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Bước I (1990 - 1998): Tổ chức bộ máy theo cơ chế quản lý thuế theo đối tượng, kết hợp với quản lý theo sắc thuế.

Bước II (1999 - 2004): Tổ chức bộ máy theo cơ chế quản lý thuế tự tính, tự khai, và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế.

Bước III (2004 đến nay): Quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự tính, tự kê khai thuế, tự nộp thuế (cơ chế TKN).

Hiện nay, công tác quản lý thuế ở nước ta được thực hiện theo các quy định của Luật Quản lý thuế được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006. Luật này quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.

Đối tượng áp dụng: (i)Người nộp thuế:

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật;

- Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người nộp thuế.

(ii) Cơ quan quản lý thuế:

- Cơ quan thuế gồm Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi cục thuế;

- Cơ quan hải quan gồm Tổng cục hải quan, Cục hải quan, Chi cục hải quan.

(iii) Công chức quản lý thuế gồm công chức thuế, công chức hải quan.

(iv) Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế.

Tổ chức thực hiện quản lý thuế theo chức năng:

Trong quá trình cải cách quản lý thuế và hội nhập quốc tế về thuế, quản lý thuế của Việt Nam đã chuyển đổi từ hệ thống tự tính - tự khai và nộp theo thông báo sang hệ thống tự tính - tự khai - tự nộp thuế trên cơ sở tăng cường dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế và thanh tra thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế. Để thực hiện tốt cơ chế quản lý này, cơ quan thuế tổ chức thực hiện quản lý thuế theo chức năng, cụ thể:

(i) Hỗ trợ và tuyên truyền ĐTNT:

Là bộ phận tiếp nhận hồ sơ thuế và tiến hành các thủ tục hướng dẫn, trả lời, giải đáp các vướng mắc của ĐTNT trong quá trình thực hiện các quy định hiện hành về chính sách thuế, phí và lệ phí thông qua các hình thức trả lời tại cơ quan thuế, qua điện thoại hoặc bằng văn bản theo đúng hướng dẫn về nghiệp vụ tại các quy trình do Tổng cục Thuế ban hành về việc hướng dẫn thực hiện công tác hỗ trợ ĐTNT trong thẩm quyền.

Chủ trì phối hợp với các Bộ phận chức năng tổ chức tiếp xúc thông qua các hình thức hội nghị, hội thảo, tập huấn để phổ biến, hướng dẫn chính sách và thủ tục về thuế cho ĐTNT thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp.

Lưu trữ và tổ chức phổ biến chính sách thuế mới, thực hiện việc đào tạo và đào tạo tại chỗ về chuyên môn nghiệp vụ đối với lực lượng cán bộ chuyên trách của đơn vị. Lưu trữ và thông báo các nội dung hướng dẫn chính sách thuế đã tiến hành cho ĐTNT đến các bộ phận chức năng nhằm thống nhất các biện pháp thi hành Pháp luật về Thuế trong toàn ngành.

(ii) Xử lý tờ khai và tổng hợp:

Thực hiện việc tiếp nhận tờ khai, hồ sơ thuế của ĐTNT, và tiến hành xử lý trong thẩm quyền hoặc chuyển cho các bộ phận chức năng theo phân công, phân cấp, và hoặc theo qui định tại quy trình.

Căn cứ vào số liệu kê khai thuế của ĐTNT tiến hành các bước theo quy trình xử lý thông tin về số thuế phát sinh của ĐTNT nhằm mục đích quản trị dữ liệu thuế theo yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ.

Theo dõi, giám sát việc xử lý thông tin về số thuế phát sinh theo kê khai của ĐTNT, trên cơ sở dữ liệu đó tiến hành phân tích, đánh giá chung tình hình thực hiện của từng ĐTNT nhằm mục đích thu thuế, hoàn thuế,… theo yêu cầu tại hồ sơ thuế của ĐTNT và cũng như các bộ phận chức năng có liên quan của ngành.

Xây dựng dự toán thu và tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu theo qui định.

(iii) Thu nợ và cưỡng chế thuế:

Phân tích dữ liệu – thông tin về tình trạng thuế trên hồ sơ thuế của ĐTNT, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp xử lý, phối hợp thực hiện nhằm mục tiêu đôn đốc thu nợ, cưỡng chế về Thuế đối với các ĐTNT không tuân thủ Pháp luật Thuế một cách có hiệu quả.

Tổ chức thực hiện quy trình theo dõi, đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế theo yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, và theo thực tiễn của việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp trong phạm vi phân cấp, phân quyền.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 04/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí