Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Về Liên Kết Với Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Và Sự Tham Gia Vào Chuỗi Cung Ứng Toàn Cầu Của Doanh


lợi cho thương mại và đầu tư, tạo điều kiện cho DNNVV khai thác cơ hội thị trường xuất khẩu để tăng trưởng.

*****

Kết luận chương 1

Như vậy, trong chương 1, NCS đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động liên kết và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của DNNVV. Về mặt lý thuyết và thực tiễn, DN có thể tham gia liên kết và các chuỗi cung ứng toàn cầu theo nhiều hình thức khác nhau tuy theo năng lực của DN. Đồng thời, các liên kết với DN FDI và việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu có thể mang lại nhiều lợi ích cho DN, trong đó nổi bật là sự cải thiện về công nghệ và năng suất lao động, từ đó tăng cường hiệu quả hoạt động của DN. Liên kết với DN FDI không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân DN mà còn có tác động tích cực tới nền kinh tế, giúp tạo công ăn việc làm, giải quyết vấn đề an sinh xã hội cũng như cải thiện cán cân thanh toán. Cơ sở lý thuyết này là nền tảng giúp NCS có định hướng cho những phân tích tổng quan và thực chứng về hoạt động liên kết với DN FDI và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của DNNVV Việt Nam trong những chương tiếp theo.


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về liên kết với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa

2.1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.

Về cách thức đo lường, liên kết giữa DNNVV và DN FDI có thể được xem xét theo nhiều phương diện khác nhau. Một trong những cách tiếp cận được nhiều nghiên cứu sử dụng là phân tích hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI tới nước tiếp nhận đầu tư. Theo cách tiếp cận này, nhiều nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của khu vực FDI thông qua sự hiện diện của khu vực này trong các hoạt động thượng nguồn và hạ nguồn của chuỗi cung ứng thông qua việc sử dụng các dữ liệu của bảng cân đối liên ngành I/O (ví dụ Javorcik, 2004; Blalock và Gertler, 2008). Tuy nhiên, các chỉ số này mới chỉ phản ánh khả năng lan tỏa của khu vực FDI ở cấp độ ngành tới nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư, và cho rằng ảnh hưởng của khu vực FDI tới DN trong nước là như nhau. Ngoài ra, với cách tiếp cận hiệu ứng lan tỏa, những ảnh hưởng từ khu vực FDI có thể xảy ra kể cả khi DN FDI không có liên kết trực tiếp với các DN của nước chủ nhà.

Một số nghiên cứu khác cũng đề xuất cách đo lường mức độ liên kết ngược giữa DN FDI và DN trong nước bằng cách cách xem xét tỷ lệ đầu vào mua từ các DN địa phương trong tổng sản lượng đầu ra của doanh nghiệp FDI (ví dụ Stewart 1976, Sánchez-Martín và cộng sự, 2014). Cách tính này về một khía cạnh nào đó mới chỉ phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp mà chưa phản ánh quan hệ nhân quả, tức là doanh nghiệp hạ nguồn (mua đầu vào) giúp phát triển doanh nghiệp thường nguồn (doanh nghiệp cung ứng) hay ngược lại, doanh nghiệp thượng nguồn góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp hạ nguồn (Görg & Ruane 1998).

Liên kết với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đẩy mạnh sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - 7

Để đo lường liên kết xuôi, Winkler (2013) cũng sử dụng tỷ lệ đầu ra bán cho thị trường trong nước để phản ánh mức độ liên kết xuôi của DN FDI với nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh đó, Sánchez-Martín và cộng sự (2014) sử dụng tỷ lệ xuất khẩu gián tiếp (percentage of indirect exports) của các DN FDI để đại diện cho mức độ liên kết xuôi của khu vực này. Cụ thể, các tác giả sử dụng sản phẩm của một


DN FDI cung cấp và được xuất khẩu bởi một DN khác tại nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, chỉ số này cũng chưa hoàn toàn phản ánh mức độ liên kết của DN FDI và các DN trong nước, bởi một phần sản phẩm của DN FDI có thể được xuất khẩu gián tiếp bởi các DN FDI khác. Đồng thời, tỷ lệ đầu ra mà DN FDI cung cấp cho các DN địa phương sử dụng để sản xuất phục vụ cho thị trường trong nước cũng phản ánh mức độ liên kết giữa hai khối nội-ngoại song lại không được tính vào trong chỉ số xuất khẩu gián tiếp này. Vì vậy, thước đo này của Sánchez-Martín và cộng sự (2014) cũng chỉ phần nào phản ánh mức độ liên kết của khu vực FDI với khu vực trong nước.

Một điểm chung của các chỉ số nêu trên là đều xem xét từ góc độ các DN FDI, mà chưa phản ánh mức độ liên kết từ góc độ của các DN trong nước. Ở khía cạnh ngược lại, khi phân tích từ góc độ của các DN trong nước, do hạn chế về mặt dữ liệu, một số nghiên cứu mởi chỉ dừng sử dụng số lượng khách hàng/ nhà cung cấp thuộc khu vực FDI của DN trong nước để đại diện cho mức độ liên kết của DN. Ví dụ, UNIDO (2012) sử dụng số lượng khách hàng/nhà cung cấp là DN FDI để đại diện cho tình trạng liên kết của DN, từ đó đánh giá ảnh hưởng của số lượng khách hàng FDI tới kết quả kinh doanh của DN Việt Nam.

Tương tự, nghiên cứu của Tusha và cộng sự (2017) cũng đo lường số lượng liên kết bằng số lượng khách hàng/ nhà cung cấp của DN, và tỷ lệ đầu vào/đầu ra mà DN mua/bán từ các đối tác FDI. Ngoài ra, các tác giả cũng xem xét chất lượng của các liên kết này dựa trên dữ liệu về những hỗ trợ mà DN nhận được từ các nhà cung cấp hoặc khách hàng. Theo đó, biến phản ánh chất lượng liên kết nhận giá trị bằng 1 nếu DN nhận được hỗ trợ từ khách hàng, và bằng 0 nếu ngược lại.

Ngoài ra, một số nghiên cứu khác cũng có thể xem xét việc DN có hay không liên kết với DN FDI. Ví dụ, WB (2017) nghiên cứu thực trạng của các nhóm DNNVV có và không liên kết cung ứng với DN FDI. Như vậy, biến phản ánh liên kết của DNNVV với DN FDI là biến nhị phân, nhận giá trị 1 nếu DN là nhà cung cấp cho DN FDI, và bằng 0 nếu ngược lại.

Tương tự, nghiên cứu thuộc đề tài cấp Bộ do PGS, TS. Nguyễn Thị Thùy Vinh làm chủ nhiệm với chủ đề “Mối liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” cũng sử dụng biến nhị phân đo lường liên kết giữa DN FDI và DN trong nước. Theo đó, biến này nhận giá trị 1 nếu DN FDI có nhà cung cấp và/ hoặc khách hàng là DN trong nước, và bằng 0 nếu ngược lại.


Gần đây, báo cáo của OECD và UNIDO (2019) xây dựng một số chỉ số nhằm phản ánh tình trạng liên kết chuỗi cung ứng giữa DNNVV và DN FDI thông qua một số chỉ số như: (1) tỷ lệ đầu vào trong nước trong tổng lượng đầu vào mà DN FDI sử dụng; (2) đóng góp của DN FDI trong tổng sản lượng đầu vào sản xuất trong nước;

(3) tỷ lệ đầu vào được sản xuất bởi các DNNVV trong nước; (4) DNNVV có sử dụng đầu vào cung cấp bởi các DN FDI. Trong 4 chỉ số này, 3 chỉ số đầu tiên phản ánh mức độ liên kết từ phương diện các DN FDI, trong khi chỉ số thứ (4) lại cho thấy mức độ liên kết từ góc độ các DNNVV.

Về kết quả nghiên cứu, các công trình đã chỉ ra cả những tác động tích cực và tiêu cực của liên kết giữa DN FDI và DN trong nước. Phân tích của Moran (2001) và Blalock và Gertler (2003) đã chỉ ra, về mặt lý thuyết, trong cùng một ngành, các DN trong nước có thể học hỏi, bắt chước công nghệ của các DN FDI, đồng thời những lao động từng làm việc cho DN FDI sau khi chuyển sang làm cho các DN trong nước cũng có thể góp phần lan tỏa tri thức từ khối FDI sang các DN nội địa. Hiệu ứng cạnh tranh thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tính hiệu quả và cải thiện trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước (Caves,1974). Cạnh tranh gia tăng làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp nội địa và khiến các doanh nghiệp kém hiệu quả phải rời bỏ thị trường. Đồng thời, cạnh tranh giữa hai khối nội-ngoại cũng khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các công ty mẹ sang các chi nhánh nước ngoài, từ đó thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa về công nghệ sang khu vực trong nước (Gorg & Strobl, 2003).

Đồng thời, liên kết dọc giữa các doanh nghiệp từ các khâu khác nhau trong chuỗi cung ứng, đặc biệt là liên kết ngược giữa DN FDI và nhà cung cấp trong nước được xem là tiền đề cho sự hình thành và phát triển các ngành công nghiệp địa phương (Markusen &Venables, 1997). Các liên kết nay cũng giúp mang lại hiệu ứng lan tỏa về năng suất của FDI khi các đối tác FDI cung cấp các hỗ trợ về mặt kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm quản lý và hệ thống đảm bảo chất lượng, quản lý hàng tồn kho cho các nhà cung cấp trong nước (Moran, 2001; Driffield và cộng sự, 2002; Blalock & Gertler, 2003)

Ngược lại, nghiên cứu của Aitken và Harrison (1999) là một trong những công trình điển hình cho thấy những tác động tiêu cực không mong đợi của dòng vốn FDI. Cụ thể, theo các tác giả, các DN FDI với nguồn lực dồi dào thường có chi phí cận biên nhỏ hơn so với các DN trong nước và do đó dễ dàng mở rộng quy mô sản xuất, dẫn tới việc chiếm thị phần của các DN trong nước (market-stealing effect). Từ đó,


các DN trong nước với thị phần giảm sút, chi phí bình quân của họ sẽ tăng cao và năng suất giảm sút. Dựa trên khung phân tích này, các tác giả sử dụng số liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê Venezuela trong giai đoạn 1976- 1989 và khẳng định rằng, mặc dù dòng vốn FDI có tác động tích cực tới năng suất của các DN liên doanh, sự hiện diện của các DN FDI có xu hướng làm giảm năng suất của các DN 100% vốn nội địa trong cùng ngành.

Công trình của Farole và Winkler (2014) sử dụng số liệu điều tra doanh nghiệp của WB cho thấy, ảnh hưởng tiêu cực của dòng vốn FDI tới các doanh nghiệp trong nước, bắt nguồn từ hiệu ứng cạnh tranh trong ngắn hạn và sự chênh lệch về kỹ năng của người lao động giữa khu vực FDI và khu vực trong nước. Đồng thời, các DN FDI với chiến lược tìm kiếm thị trường (được đại diện bởi tỷ lệ đầu ra bán ở thị trường trong nước) lại có ảnh hưởng tích cực tới năng suất của các DN nội địa.

Các nghiên cứu về liên kết kinh doanh ở Việt Nam cũng theo xu hướng chung nêu trên, thường tập trung phân tích về các liên kết dọc và liên kết ngang dưới góc độ phân tích hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI tới các doanh nghiệp trong nước.

Nghiên cứu của Nguyen Thi Tue Anh và cộng sự (2006) là một trong những nghiên cứu tiên phong về hiệu ứng lan tỏa của FDI tại Việt Nam. Theo nhóm tác giả, FDI lan tỏa ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước thông qua hai kênh: liên kết sản xuất (bao gồm cả liên kết ngược và xuôi) và hiệu ứng cạnh tranh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có doanh nghiệp tư nhân được hưởng lợi từ các kênh lan tỏa này. Trong khi đó DN nhà nước mặc dù có những đặc quyền nhất định song lại chịu ảnh hưởng tiêu cực từ hiệu ứng cạnh tranh từ phía các DN FDI, điều này khiến cho các hiệu ứng tích cực từ các liên kết sản xuất lại bị triệt tiêu dần.

Công trình của Nguyen Ngoc Anh và cộng sự (2008) và Tran Toan Thang (2011) đều dựa trên quan điểm cho rằng liên kết ngang có thể tạo cơ hội cho hiệu ứng lan tỏa cho các doanh nghiệp trong nước thông qua hiệu ứng cạnh tranh (competition effect) và hiệu ứng trình diễn (demonstration effect) cũng như sự dịch chuyển lao động từ các DN FDI sang các DN trong nước. Đồng thời, các liên kết dọc cũng có thể mang lại hiệu ứng lan tỏa về công nghệ thông qua việc các công ty đa quốc gia hỗ trợ công nghệ cho các nhà cung cấp hoặc khách hàng nội địa. Các nghiên cứu này đều cho rằng liên kết xuôi có ảnh hưởng tiêu cực trong khi liên kết ngược lại có ảnh hưởng tích cực tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nước. Đồng thời kết


quả nghiên cứu cũng phản ánh hiệu ứng lấn át (market stealing effect) của các DN FDI đối với DN trong nước trong cùng ngành.

Trong khi đó, UNIDO (2012) dựa trên số liệu điều tra về DN Việt Nam vào năm 2011 đã tiến hành ước lượng ảnh hưởng của liên kết tới doanh thu nội địa của các DN. Trong nghiên cứu này, các liên kết ngược và liên kết xuôi được tính là log của số lượng khách hàng và nhà cung cấp là DN FDI. Kết quả mô hình ước lượng OLS và mô hình tác động ngẫu nhiên RE đều cho thấy các mối liên kết này có ảnh hưởng tích cực tới doanh thu của DN.

Kubny và Voss (2014) đã đánh giá ảnh hưởng dòng vốn FDI từ Trung Quốc tới các DN Việt Nam. Nghiên cứu này mang tính chất định tính nhằm tìm hiểu về thực trạng liên kết của các DN FDI Trung Quốc với các DN Việt Nam. Các tác giả đã chỉ ra rằng, cũng giống như các nhà đầu tư từ các nước phát triển, các DN FDI Trung Quốc có tỷ lệ nội địa hóa tương đối thấp do các DN Việt Nam không sản xuất các sản phẩm mà DN FDI Trung Quốc mong đợi. Tuy nhiên, số liệu điều tra cho thấy các DN FDI Trung Quốc có xu hướng hình thành liên kết với các DN nội địa ở những ngành công nghệ cao như điện tử, ô tô, xe máy hơn so với những ngành công nghệ kém tiên tiến như dệt may. Các tác giả cũng cho thấy, các DN FDI Trung Quốc có xu hướng hỗ trợ về công nghệ và tài chính cho các nhà cung cấp địa phương hơn là các khách hàng bởi như nhiều nghiên cứu trước khẳng định, những hỗ trợ cho nhà cung cấp đầu vào giúp đảm bảo được chất lượng đầu ra của DN. Song, một thực tế là, do các DN Việt Nam có nhiều hạn chế về năng lực hấp thụ, đồng thời họ thường có xu hướng muốn nhận chuyển giao từ các DN có nguồn gốc từ các nước tiên tiến hơn là Trung Quốc, dẫn tới hạn chế trong hiệu quả của sự hỗ trợ này.

Nghiên cứu của Newman và cộng sự (2015) cũng cho rằng DN FDI thường có trình độ công nghệ cao hơn so với các DN của nước tiếp nhận đầu tư, do đó có thể chuyển giao tri thức thông qua liên kết với các DN nội địa, từ đó có thể góp phần gia tăng năng suất của các DNNVV trong nước. Kết quả mô hình hồi quy cho thấy các liên kết xuôi từ DN FDI cung cấp đầu vào cho các khách hàng trong nước có ảnh hưởng tích cực tới năng suất của của DN trong nước. Đồng thời các liên kết trực tiếp với DN FDI, đặc biệt là các liên kết có kèm theo chuyển giao công nghệ, có thể giúp giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của hiệu ứng lấn át từ DN FDI trong các hoạt động thượng nguồn của chuỗi sản xuất.


Một công trình khác của Tusha và cộng sự (2017) cho thấy, các DN FDI, dù có đặc điểm tương đồng với DN trong nước, vẫn có số lượng khách hàng nước ngoài cao hơn. Trong khi đó, các DN trong nước khi liên kết với các DN nước ngoài có xu hướng nhận được nhiều hỗ trợ hơn so với các DN thuần túy hoạt dộng ở thị trường nội địa. Ngoài ra, phân tích mô hình với biến công cụ đã cho thấy tỷ lệ khách hàng nước ngoài có ảnh hưởng tích cực tới năng suất của các nhà cung cấp trong nước.

Như vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, phần lớn các nghiên cứu hiện nay theo cách tiếp cận phân tích hiệu ứng lan tỏa của FDI, và trong đó liên kết kinh doanh chỉ được coi là một trong những kênh chuyển giao các hiệu ứng này. Kết quả của các nghiên cứu này mặc dù có đã chỉ ra những tác động của khu vực FDI, tuy nhiên mới chỉ xem xét về ảnh hưởng từ sự hiện diện của khu vực FDI ở cấp độ ngành đối với nền kinh tế và các DN nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, cần có một nghiên cứu để xem xét những bằng chứng về ảnh hưởng của liên kết giữa hai khối nội- ngoại ở cấp độ doanh nghiệp.

Trong nghiên cứu này, NCS hướng tới phân tích liên kết với DN FDI từ góc độ của các DNNVV. NCS dựa trên thông tin về cơ cấu nhà cung cấp đầu vào và các khách hàng của DN theo bộ dữ liệu điều tra DN ngành chế tạo hàng năm của TCTK (phiếu 1Am) để xác định tình hình liên kết của DN.

Cụ thể, để đại diện cho liên kết của DNNVV với DN FDI, NCS sử dụng biến nhị phân theo quan điểm của WB (2017) và Nguyễn Thị Thùy Vinh và cộng sự (2017). Theo đó, biến này nhận giá trị bằng 1 nếu DNNVV có mua đầu vào hoặc bán đầu ra cho DN FDI, và nhận giá trị bằng 0 nếu ngược lại.

Ngoài ra, với bộ dữ liệu thứ cấp từ cuộc Tổng điều tra DN hàng năm của TCTK, NCS cũng khai thác tỷ lệ sản phẩm quan trọng nhất của DNNVV bán ra cho DN FDI để đại diện cho mức độ liên kết giữa DNNVV với DN FDI với tư cách là nhà cung cấp (liên kết ngược).

2.1.2 Tổng quan về sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Như đã đề cập ở trên, chuỗi cung ứng toàn cầu mang lại cơ hội học hỏi và phát triển năng lực cho các DN. Vì vậy, nghiên cứu các nhân tố quyết định sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của DN nói chung và DNNVV nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các khuyến nghị, đề xuất nhằm hỗ trợ các DN đẩy mạnh và hưởng lợi từ sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.


Trong phần này, NCS tiến hành phân tích tổng quan các công trình liên quan tới chủ đề sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa, và tác động của. Phần tổng quan này là nền tảng để NCS xây dựng khung nghiên cứu, thu thập dữ liệu và xây dựng các biến độc lập và biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu phân tích

Thứ nhất, về đo lường sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, các nghiên cứu về sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu có thể được tiến hành ở cấp độ quốc gia, ngành hay doanh nghiệp. Tuy nhiên, một đặc điểm chung là, dù phân tích về sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu ở cấp độ nào thì các nghiên cứu đều dựa vào các dữ liệu về các hoạt động xuất nhập khẩu.

Ở cấp độ quốc gia, sự tham gia ngược dòng (backward participation) vào các chuỗi cung ứng toàn cầu cho biết giá trị gia tăng của nước ngoài trong giá trị xuất khẩu của một quốc gia, phản ánh các hoạt động nhập khẩu trong chuỗi. Trong khi đó sự tham gia xuôi dòng (forward participation) cho biết giá trị gia tăng trong nước được sử dụng như đầu vào để sản xuất hàng hóa xuất khẩu sang nước khác. Johnson và Noguera (2012) đã đưa ra khái niệm thương mại giá trị gia tăng (trade in value added- TiVA). Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã kết hợp dữ liệu thương mại và bảng cân đối liên ngành đa khu vực để tính toán tỷ lệ nội địa hóa trong giá trị xuất khẩu. Khái niệm này qua đó phản ánh đầy đủ về đầu vào trung gian nội địa và nhập khẩu được sử dụng trong sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Về cơ bản, theo cách tiếp cận này, giá trị xuất khẩu được chia thành hai bộ phận: giá trị gia tăng nội địa (domestic origin value added- DVA) và giá trị gia tăng nước ngoài – phản ánh tỷ lệ đầu vào nhập khẩu (foreign origin value added – FVA). Tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu càng thấp thể hiện mức độ tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu càng cao, nền kinh tế trong nước càng có sự gắn kết với thị trường quốc tế (Sherpherd, 2020)

Ở cấp độ ngành, một chỉ số được đề xuất bởi Hummels và cộng sự (2001) là chỉ số đo lường mức độ tham gia chuyên môn hóa sản xuất trong chuỗi cung ứng toàn cầu theo chiều dọc VS (vertical specialisation). Tỷ lệ này phản ánh hàm lượng nhập khẩu đầu vào trong giá trị xuất khẩu. Cụ thể, tỷ lệ này của ngành i thuộc nước k được tính toán như sau

𝑉𝑆𝑘𝑖

= 𝐼𝑚

𝑂

. 𝑋 (2.2)

Trong đó Im: giá trị đầu vào nhập khẩu; O: Tổng giá trị đầu ra; X: Giá trị xuất khẩu. Như vậy VS là chỉ số phản ánh sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở cả

Xem tất cả 236 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí