Tăng cường kiểm soát để ngăn chặn hoạt động đầu tư, mua trái phiếu của doanh nghiệp phát hành nhằ mục đích huy động vốn để cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư trái phiếu có mục đích đầu tư vào những chương trình, dự án thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản hoặc tăng quy mô vốn của tổ chức phát hành hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Tăng cường kiểm tra, giám sát sau cho vay, đặc biệt là giám sát việc sử dụng vốn đúng mục đích khi phát hành trái phiếu của doanh nghiệp.
Thường xuyên theo d i, đánh giá để xác định sớm các dấu hiệu bất thường về khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật, quy định nội bộ trong hoạt động cấp tín dụng. Tăng cường kiểm soát hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, tích cực triển khai biện pháp kiểm soát nợ nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh, nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định và hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, các ngân hàng cần tập trung rà soát việc đầu tư trái phiếu đối với các doanh nghiệp có số dư lớn, nhất là các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với nhiều tổ chức tín dụng/doanh nghiệp khác, bảo đảm tuân thủ đúng quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, nhất là quy định về giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan.
4.3.3. Phát triển và nâng cao chất lượng nhân lực cho hoạt động đầu tư trái phiếu
Đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự, từng bước cơ cấu lại bộ máy theo hướng chuyên nghiệp, tạo nên sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Căn cứ thực tế phát triển của thị trường, khi mà điều kiện pháp lý cho phép cùng với sự gia tăng của các sản phẩm mới (hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai, bán khống...), các ngân hàng cần thành lập bộ phận kinh doanh độc lập (bộ phận tự doanh). Chú trọng phát triển hoạt động tự doanh, trên cơ sở quy định các hạn mức cụ thể, cùng với cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro phát sinh. Để thực hiện hoạt động tự doanh trái phiếu có hiệu quả, đòi hỏi cán bộ thực hiện tận dụng nhiều kỹ thuật khác nhau, nhằm tìm kiếm những trái phiếu có khả năng tăng
giá trên cơ sở phân tích đầy đủ các yếu tố liên quan.
Kinh nghiệm hoạt động đầu tư trái phiếu thường được phân ra ba bộ phận: kinh doanh (Front Office), kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát (Middle Office), và kế toán (Back Office). Trong đó, bộ phận kinh doanh luôn chiếm tỉ lệ nhân lực đông nhất (khoảng 50%) và hầu hết là nhân viên có trình độ cao, nghiệp vụ kinh doanh giỏi, am hiểu rộng và nhạy bén trước những biến động về kinh tế, thận trọng và quyết đoán; Bộ phận kiểm tra, kiểm soát thường chiếm từ 15%-20% tổng số nhân viên gồm những người có trình độ cao về nghiệp vụ thanh kiểm tra, kĩ thuật nghiên cứu, quản lý. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm này để tuyển dụng, đào tạo, bố trí và sắp xếp nhân lực cho các bộ phận một cách hợp lý.
4.3.4. Các giải pháp khác
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Phát Triển Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam
- Định Hướng Phát Triển Ngành Ngân Hàng Việt Nam
- Dự Báo Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam 1683880233 - 22
- Hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam 1683880233 - 23
- Hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam 1683880233 - 24
Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.
Một là, nâng cao nhận thức của Ban quản trị ngân hàng về vai trò và vị trí của hoạt động đầu tư và kinh doanh trái phiếu trong chiến lược hoạt động và phát triển chung của ngân hàng.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác quản trị điều hành. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế điều hành và quản lý nguồn vốn khả dụng đối với các NHTM nhỏ, đặc biệt là cơ chế quản lý vốn tập trung và điều hòa vốn nội bộ linh hoạt và hiệu quả hơn so với cách thức quản lý hiện nay.
Ba là, tăng cường kiểm soát và giảm tỷ lệ nợ xấu. Kiểm soát nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động tín dụng nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng của các NHTM. Vì vậy, các ngân hàng cần chủ động triển khai các giải pháp kiềm chế nợ xấu gia tăng, nâng cao chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu. Thường xuyên theo d i, đánh giá để xác định sớm các dấu hiệu bất thường về khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật, quy định nội bộ trong hoạt động cấp tín dụng. Tăng cường kiểm soát hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, tích cực triển khai biện pháp kiểm soát nợ nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh, nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định và hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
4.4. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
4.4.1. Với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Các quy định về đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính an toàn và hiệu quả hoạt động đầu tư trái phiếu của các NHTM cũng như phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Điều này càng trở nên chính xác đối với các nền kinh tế đang phát triển khi hệ thống ngân hàng nắm giữ phần lớn lượng trái phiếu trên thị trường. Những rủi ro về chênh lệch kỳ hạn xuất phát từ nguồn vốn huy động của hệ thống TCTD phần lớn là ngắn hạn trong khi các khoản đầu tư vào trái phiếu mang tính trung dài hạn buộc NHTW các nước gia tăng các biện pháp kiểm soát tỷ lệ đầu tư vào trái phiếu của hệ thống ngân hàng cũng như tăng cường việc công bố thông tin và phân tích rủi ro. NHTW Ấn Độ đã ban hành hướng dẫn vào tháng 6/2011 yêu cầu phải có công bố thông tin và phân tích rủi ro tín dụng. Các ngân hàng được khuyến khích áp dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm đối với các tổ chức phát hành. Những quy định thận trọng trong những vấn đề này cũng được công bố. Tại Indonesia, các ngân hàng không được phép bảo lãnh phát hành, việc này chỉ được giới hạn đối với một số công ty chứng khoán được cấp phép. Trên cơ sở nghiên cứu của mình NCS đề xuất một số kiến nghị sau đối với NHNN nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động đầu tư trái phiếu của các NHTM Việt Nam:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, bổ sung quy định giới hạn tỉ lệ đầu tư trái phiếu trên tổng giá trị tài sản, tỉ lệ đầu tư vào trái phiếu của các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm (nên áp dụng cùng mức mức với quy định về tỉ lệ cho vay để đầu tư vào trái phiếu của các doanh nghiệp này), hạn chế việc đầu tư vào trái phiếu của các TCTD khác để kiểm soát tình trạng vốn chạy lòng vòng trong hệ thống ngân hàng. Có chế tài xử phạt nghiêm những NHTM cố tình lách luật, đầu tư kinh doanh trái phiếu sai quy định.
Thứ hai, tăng cường chất lượng thanh tra, giám sát các hoạt động đầu tư trái phiếu của NHTM, đảm bảo việc tuân thủ các hoạt động đầu tư trái phiếu, hoạt động
tín dụng được thực hiện nghiêm túc. Tăng cường năng lực thể chế, hiệu lực, hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN; Mở rộng phạm vi thanh tra, giám sát đến các tập đoàn tài chính dưới hình thức công ty mẹ - con, trong đó công ty mẹ là TCTD; tuân thủ phần lớn các nguyên tắc giám sát ngân hàng hiệu quả theo Basel II. Tăng cường quản lý công tác xử lý sau thanh tra, giám sát theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam; tăng cường trách nhiệm, tăng tính công khai, minh bạch trong quản trị và hoạt động của các TCTD, phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại các TCTD trong từng giai đoạn.
Thứ ba, xây dựng tiêu chí, phân loại, xếp hạng các TCTD; rà soát, hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát thích hợp đối với mỗi loại TCTD. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro, cơ chế xử lý khủng hoảng hệ thống và xử lý các TCTD tiềm ẩn rủi ro cao, bảo đảm quyền can thiệp của NHNN nhằm bảo vệ sự an toàn hệ thống.
Sửa đổi, bổ sung các quy định xử lý sở hữu chéo, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền quản trị, điều hành, quyền cổ đông lớn để thao túng hoạt động của TCTD.
4.4.2. Với Chính phủ và các bộ ngành liên quan đến quản lý nhà nước về thị trường trái phiếu
Một là, phát triển quy mô thị trường, trên cơ sở phát triển nhà đầu tư, các bộ phận cấu thành thị trường nhất là thị trường thứ cấp.
Tiếp tục nghiên cứu nhằm đa dạng hóa cơ cấu nhà đầu tư TPDN. Như vậy cơ cấu nhà đầu tư sẽ tự động được mở rộng và TPDN sẽ là một kênh đầu tư tiềm năng của khu vực dân cư. Thực tế các nhà đầu tư trái phiếu chính là các định chế tài chính chiếm vị trí lớn nhất của thị trường thứ cấp TPDN trong những năm qua. Bởi không chỉ là đối tượng chính mua TPDN, các định chế tài chính còn trở thành các đại lý nòng cốt để bán TPDN đến các nhà đầu tư nhỏ lẻ khác. Vì vậy, bán trái phiếu qua các định chế tài chính là giải pháp ngắn hạn hiệu quả để mở rộng tệp nhà đầu tư TPDN. Các doanh nghiệp sẽ chủ động phối hợp với các định chế tài chính, đặc biệt là ngân hàng, như một kênh trung gian để bán trái phiếu trên thị trường cấp 1. Đây là biện pháp không chỉ hỗ trợ phát triển thị trường TPDN mà còn giúp phân tán lượng TPDN tồn tại trên bảng cân đối của các NHTM sang các nhà đầu tư nhỏ lẻ
khác, giảm thiểu rủi ro tập trung tín dụng trong hệ thống trung gian tài chính, hạn chế rủi ro tài chính cá nhân.
Các bộ ngành có liên quan cần tiếp tục thúc đẩy các giao dịch thứ cấp trái phiếu doanh nghiệp phát triển, tạo ra cơ chế để trái phiếu có thể bán buôn, bán lẻ cho khách hàng là tổ chức, cá nhân một cách rộng rãi hơn, từ đó có thể tạo ra thị trường thứ cấp thật sự sôi động. Khi có một lượng nhà đầu tư đủ lớn cho TPDN, tính kiểm soát, yêu cầu minh bạch, yêu cầu thanh khoản sẽ tăng lên và tạo ra thị trường trái phiếu thực sự. Việc minh bạch về thông tin và giá cũng giúp các giao dịch dễ dàng hơn, cá nhân tham gia đầu tư trái phiếu chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.
trường
Hai là, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin thị
Tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường TPDN, bao gồm có thể sẽ
nghiên cứu thành lập tổ chức thu thập thông tin doanh nghiệp, thống kê giao dịch TPDN hàng ngày để minh bạch hóa thị trường. Sẽ đưa ra những quy định về lưu ký tập trung TPDN trên sở giao dịch để có thể thu thập tốt hơn thông tin về tình hình doanh nghiệp, cũng như quy mô giao dịch TPDN hàng ngày, Điều này sẽ giúp nhà đầu tư có tổ chức, cũng như các nhà đầu tư cá nhân dễ dàng theo d i nhu cầu mua bán hàng ngày, tăng độ chuyên nghiệp của thị trường, tạo sự phát triển bền vững tài chính cá nhân.
Nâng cao tính minh bạch và chuyên nghiệp cho thị trường theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Hình thành hệ thống công bố thông tin về phát hành, giao dịch đối với TPDN niêm yết và chưa niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán để thúc đẩy phát triển thị trường TPDN. Nghiên cứu xây dựng chuyên trang thông tin về TPDN tại Sở Giao dịch Chứng khoán để cung cấp thông tin về tình hình phát hành, giao dịch TPDN, thúc đẩy giao dịch thứ cấp TPDN.
Xây dựng và công bố công khai lịch biểu phát hành TPCP để tạo điều kiện cho các thành viên chủ động tham gia thị trường, tăng khả năng huy động vốn cho ngân sách nhà nước và thúc đẩy phát triển thị trường thứ cấp. Khi có nhu cầu phát
hành tín phiếu để thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN Việt Nam phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng lịch biểu phát hành và tổ chức phát hành để đảm bảo ổn định thị trường trái phiếu.
Ba là, phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường, định chế trung gian và dịch vụ thị trường
Tiếp tục xúc tiến, đẩy nhanh nhanh hoạt động xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, xếp hạng tín nhiệm quốc tế tại Việt Nam để các nhà đầu tư có thể phân biệt được mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư cá nhân tham gia một cách chuyên nghiệp hơn vào thị trường trái phiếu.
Hoàn thiện và phát triển hệ thống các nhà tạo lập thị trường với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ để thực hiện chức năng tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp nhằm tăng tính thanh khoản của thị trường. Yêu cầu các nhà tạo lập thị trường thực hiện nghĩa vụ chào giá hai chiều (giá mua, giá bán) đối với các mã TPCP tiêu chuẩn nhằm tạo thanh khoản cho thị trường. Đẩy mạnh chương trình tái cơ cấu công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ theo các nguyên tắc và lộ trình quy định nhằm tăng cường năng lực của các định chế này trong việc tham gia vào thị trường trái phiếu, đặc biệt là tham gia vào hệ thống phát hành, giao dịch và tạo lập thị trường.
Kho bạc Nhà nước cho vay trái phiếu đối với các nhà tạo lập thị trường khi thực hiện nghĩa vụ chào giá mua và giá bán đối với các sản phẩm trái phiếu chuẩn. Xây dựng đường cong lãi suất và chỉ số TPCP nhằm hỗ trợ việc đánh giá hiệu quả tài chính của các danh mục đầu tư trái phiếu. Xây dựng khung hợp đồng mẫu giao dịch có kỳ hạn (repos) chuẩn nhằm tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường trái phiếu. Cải tiến mô hình tổ chức thị trường và hệ thống giao dịch TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương tại Sở Giao dịch Chứng khoán phù hợp với tính chất giao dịch thỏa thuận, bảo đảm chế độ báo cáo giao dịch kịp thời, chính xác để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường; tăng cường trách nhiệm của thành viên thị trường thứ cấp trong công tác báo cáo giao dịch.
Đánh giá, rà soát cơ chế hiện hành về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm, quỹ hưu trí tự nguyện để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thị trường, đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức này trên thị trường trái phiếu. Cùng với việc thúc đẩy các điều kiện cho công ty định mức tín nhiệm sớm đi vào hoạt động, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế về việc đưa mô hình trung tâm định giá trái phiếu vào hoạt động. Tổ chức này sẽ thực hiện chức năng định giá TPDN, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà đầu tư trong quá trình lựa chọn, cân nhắc để đưa ra quyết định đầu tư. Đồng thời, có biện pháp khuyến khích doanh nghiệp sử dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm.
Hiện đại hóa hệ thống đấu thầu, đăng ký, lưu ký và niêm yết TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh theo hướng nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian từ khâu phát hành đến niêm yết trái phiếu từ T+2 xuống còn T+1 khi điều kiện chín muồi. Từng bước thực hiện chuyển chức năng thanh toán trái phiếu, bao gồm cả TPCP, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và TPDN từ NHTM sang NHNN Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường theo hướng an toàn, hiệu quả và hỗ trợ thực hiện chính sách tiền tệ.
Bốn là, hoàn thiện quy định pháp lý đối với hàng hóa, phát hành, giao dịch trái phiếu và các chủ thể tham gia thị trường
Sửa đổi Nghị quyết 78/2014 theo hướng cho phép phát hành đa dạng các kì hạn TPCP dưới 5 năm để hình thành đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, nhưng vẫn phải đảm bảo kì hạn bình quân tổng danh mục TPCP từ 5 năm trở lên.
Nghiên cứu, tách biệt quy định về điều kiện, hồ sơ phát hành TPDN ra công chúng với điều kiện và hồ sơ phát hành cổ phiếu ra công chúng khi sửa Luật Chứng khoán nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Yêu cầu bắt buộc doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng phải được đánh giá xếp hạng tín nhiệm khi thị trường trong nước có ít nhất 02 doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm đủ điều kiện đi vào hoạt động. Rà soát, hoàn thiện chính sách quy định về tỷ lệ nắm giữ TPCP của các TCTD theo hướng bỏ quy định về tỷ lệ nắm giữ để có sự linh hoạt trong từng thời kỳ phù hợp với sự phát triển của thị
trường trái phiếu và sự ổn định của thị trường tài chính - tiền tệ; hoàn thiện các chính sách liên quan đến giá, phí của hoạt động đăng ký lưu ký, niêm yết và giao dịch trên thị trường trái phiếu phù hợp với bản chất giao dịch của trái phiếu.
Trong điều hành chính sách tài khóa, Bộ Tài chính, các bộ ngành có liên quan cần nâng cao chất lượng dự báo, đánh giá đúng tình hình nợ phát hành trái phiếu doanh nghiệp gia tăng lớn trong tổng nợ quốc gia/GDP để chủ động có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro đối với nền kinh tế. Bộ Tài chính cần rà soát lại quy chế phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay, cần siết chặt hơn, đảm bảo an toàn cho thị trường trái phiếu, an toàn cho các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ tham gia đầu tư trái phiếu.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành văn bản yêu cầu các NHTM phải tiến hành rà soát và tăng cường các biện pháp kiểm soát hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp vì tiềm ẩn rủi ro. Những cảnh báo mà NHNN là rất cần thiết, nhưng ở góc độ khác, sự biến tướng của thị trường đầu tư trái phiếu đã cho thấy, nhu cầu vay và cho vay bất động sản của ngân hàng cùng doanh nghiệp là rất lớn. Do vậy, cơ quan quản lý không nên ngay lập tức siết chặt kênh trái phiếu doanh nghiệp, vì quyết định đó có thể đẩy nhiều doanh nghiệp bất động sản vào thế rủi ro và đổ vỡ. Trước mắt, trách nhiệm của cơ quan quản lý là nắn dòng để thị trường chảy đúng hướng, tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh nghiệp và NHTM hoạt động, đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm những NHTM cố tình lách luật, mua trái phiếu để đảo nợ sai quy định, góp phần đảm bảo an toàn cho tài chính cá nhân.
Xu hướng thị trường trái phiếu thời gian tới, đầu tư vào trái phiếu sẽ tiếp tục tăng trưởng, các NHTM cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh kênh này để hút vốn dài hạn trong bối cảnh NHNN ngày càng siết chặt tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của Ngân hàng. Với hành lang pháp lý đó là Nghị định 163/2018/NĐ-CP ngày 4/12/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng,…cần khẩn trương triển khai xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng và phân r ngưỡng yêu cầu để các nhà đầu tư có thể tham gia mua trong đợt phát hành riêng