chuyên nghiệp khi triển khai các chương trình xúc tiến. Cụ thể: các doanh nghiệp bán lẻ vừa và nhỏ cần hoạch định chương trình xúc tiến hỗn hợp một cách bài bản, triển khai và có đánh giá đối với các chương trình xúc tiến một cách thường xuyên và định kỳ. Ngoài ra, các doanh nghiệp bán lẻ cũng cần tích cực tham gia vào chương trình xúc tiến của nhà sản xuất, nhờ đó nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại.
Đối với các doanh nghiệp bán buôn: quản trị truyền thông marketing và xúc tiến thương mại phải được chú trọng hơn. Nhiều doanh nghiệp bán buôn thực hiện truyền thông marketing và xúc tiến thương mại mang tính đơn lẻ, tự phát, không chủ động. Điều nàyảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bán buôn. Quản trị truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp của các doanh nghiệp bán buôn mang tính trọng điểm, hướng tới các khách hàng có thể định danh hoặc khách hàng có thể khoanh vùng trọng điểm.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: quản trị truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp đòi hỏi ngân quỹ tương đối lớn, do vậy các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ luôn gặp khó khăn trong truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp. Để nâng cao hiệu quả truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp trong xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu cần có các hoạt động mang tính trọng điểm và kết hợp truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn h ợp giữa TTCL và các thị trường khác của doanh nghiệp để tiết kiệm chi phí.
Đối với các doanh nghiệp logictics: quản trị truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp cần được mở rộng đối tượng cho phù hợp với khả năng mở rộng các hoạt động logictics. Bởi hiện nay các doanh nghiệp logictics vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội đang phấn đấu nâng cao mức độ cung ứng dịch vụ, đảm bảo cung ứng các dịch vụ logictis bên thứ 3 cho các doanh nghiệp trên thị trường .
Đối với các doanh nghiệp du lịch: quản trị truyền thông marketing và xúc tiến thương mại hỗn hợp đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp dịch vụ trong đó có doanh nghiệp du lịch. Các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ cần chú ý truyền thông và xúc tiến thương mại phù h ợp với các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia dành cho du lịch.
3.3.3.4. Quản trị bán hàng và dịch vụ khách hàng
Quản trị bán hàng luôn là khâu quản trị quan trọng đối với mọi doanh nghiệp trên thị trường. Nhằm hoàn thiện quản trị bán hàng ở các DNVVN cần tập trung một s ố giải pháp sau:
- Thiếu tính kế hoạch là một tồn tại mang tính phổ biến ở nhiều DNVVN. Do quy mô kinh doanh nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp, không có kế hoạch cụ thể bài bản. Nhiều DNTM,DV vừa và nhỏ chưa coi trọng công tác xây dựng kế hoạch bán hàng, các
doanh nghiệp này triển khai bán hàng mang tính thụ động, việc đến thì làm, thiếu tính chủ động. Để đảm bảo xây dựng kế hoạch bán hàng có chất lượng, các doanh nghiệp cần dựa trên cơ sở dự báo bán hàng và các điều kiện nội lực, các doanh nghiệp sẽ xây dựng kế hoạch bán hàng đảm bảo chủ động trong bán hàng .
- Tạo lập quan hệ chặt chẽ với khách hàng chiến lược. Với các TTCL, hoạt động bán hàng chưa chắc đã mang lại dòng lưu kim dương, vả lại đó cũng không phải là mục tiêu trong bán hàng trên các đoạn TTCL. Quản trị bán hàng trên các TTCL hướng tới mục tiêu tiếp cận và xây dựng quan hệ với khách hàng trong dài hạn. Hoạt động bán hàng trên các đoạn TTCL chưa chắc đã bù đắp được các chi phí phải bỏ ra trên đoạn thị trường này, thậm chí doanh nghiệp phải lấy lợi nhuận trên các đoạn thị trường khác để duy trì hoạt động bán hàng trên TTCL.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Dự Báo Phát Triển Thị Trường Thương Mại, Dịch Vụ Nói Chung Và Thị Trường Dntm,dv Vừa Và Nhỏ Hà Nội Nói Riêng Đến 2015 Tầm Nhìn 2020
- Phương Pháp Phân Tích Ge Và Định Hướng Chiến Lược Thị Trường Dnvvn
- Hoàn Thiện Quản Trị Quan Hệ Khách Hàng Chiến Lược Của Doanh Nghiệp
- Tăng Cường Trao Đổi, Tọa Đàm, Phổ Biến Kinh Nghiệm Trong Cộng Đồng Dnvvn
- Hoàn thiện quản trị thị trường chiến lược của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ trên địa bàn Hà Nội - 21
- Hoàn thiện quản trị thị trường chiến lược của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ trên địa bàn Hà Nội - 22
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp cho lực lượng bán hàng . Lực lượng bán hàng ở các DNVVN thường thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ chuyên môn thấp, chưa qua đào tạo cơ bản. Lực lượng bán hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nhưng với một bộ phận không nhỏ DNVVN còn chưa coi trọng và xác định đúng vai trò của lực lượng này. Để nâng cao tính chuyên nghiệp cho lực lượng bán hàng các DNVVN cần: Một là, chú trọng trong khâu tuyển dụng lực lượng bán hàng theo những tiêu chí nhất định, tránh tình trạng lựa chọn không có cơ sở. Hai là, tổ chức huấn luyện ban đầu và đào tạo bổ sung một cách định kỳ đảm bảo nhân viên bán hàng luôn đáp ứng tốt các yêu cầu của công việc. Ba là, xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm phát triển lực lượng bán hàng của doanh nghiệp. Bốn là , xây dựng tiêu chí và tăng cường kiểm soát hoạt động của lực lượng bán hàng.
Về dịch vụ bán hàng: TTCL là đoạn thị trường hấp dẫn trong dài hạn nên các doanh nghiệp phải rất chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Theo nhận định ở phần trên, chất lượng dịch vụ khách hàng ở các DNVVN còn thấp, không thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Do vậy, các DNVVN cần có biện pháp khắc phục tình trạng này. Nâng c ao chất lượng dịch vụ khách hàng là phương hướng phấn đấu của mọi doanh nghiệp trên thị trường trong đó có các DNTM,DV vừa và nhỏ , song đi đôi với nâng cao chất lượng thì áp lực chi phí đối với các DNTM,DV nhỏ vừa sẽ tăng lên nhiều. Vì vậy, trong từng giai đoạn nhất định doanh nghiệp cần lựa chọn những dịch vụ khách hàng trọng yếu mang lại những giá trị phù hợp với mong muốn của khách hàng trên TTCL để nâng cao chất lượng.
Các giải pháp trên là những giải pháp phải được thực hiện thường xuyên để đảm bảo chất lượng hoạt động bán hàng. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn doanh nghiệp phải có mục tiêu rõ ràng cần đạt được đối với các giải pháp. Trong ngắn hạn và trung hạn, các DNTM,DV vừa và nhỏ phải nhanh chóng đưa các hoạt động xây dựng kế hoạch bán hàng, tạo lập quan hệ với khách hàng chiến lược, đào tạo lực lượng bán hàng, xây
dựng các dịch vụ hỗ trợ đi vào bài bản chuyên nghiệp. Trong dài hạn, các DNTM,DV phải đảm bảo chất lượng các hoạt động ngày một nâng cao, quản trị bán hàng đối với khách hàng chiến lược phải được ưu tiên hàng đầu và có chính sách bán hàng riêng biệt so với các khách hàng thông thường.
3.3.3.5. Quản trị thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp
Xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp không phải là vấn đề riêng có của các doan h nghiệp lớn mà đó là vấn đề của mọi doanh nghiệp trên thị trường. Tùy theo tính chất hoạt động và quy mô của mỗi doanh nghiệp mà có kế hoạch xây dựng và phát triển thương hiệu sao cho phù hợp.
Đối với các doanh nghiệp bán buôn và bán lẻ thì cần chú trọng quản trị thương hiệu doanh nghiệp nhiều hơn so với quản trị thương hiệu sản phẩm. Ở nước ta, người tiêu dùng khi mua sản phẩm thường chú ý đến thương hiệu sản phẩm chứ ít chú ý đến thương hiệu của doanh nghiệp phân phối nó trên thị trường. Đã đến lúc các d oanh nghiệp phân phối bán buôn, bán lẻ cần thay đổi tư duy của bản thân doanh nghiệp và từ đó thay đổi tư duy của khách hàng. Cần phải thay đổi tư duy của khách hàng, chuyển từ tư duy coi trọng thương hiệu của nhà sản xuất sang tư duy coi trọng thương hiệu của nhà phân phối. Quản trị thương hiệu không dàn trải trên tất cả các đoạn thị trường vì ngân quỹ của các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ vừa và nhỏ không cho phép mà cần tập trung vào quản trị thương hiệu trên các đoạn TTCL để phát huy hiệu quả trong dài hạn.
Trong ngắn hạn và trung hạn: các doanh nghiệp kết hợp quản trị thương hiệu doanh nghiệp và quản trị thương hiệu sản phẩm, trong đó quản trị thương hiệu sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Trong dài hạn: doanh nghiệp tăng dần tỷ lệ các hoạt động quản trị thương hiệu doanh nghiệp, tiến tới tạo dựng thương hiệu của doanh nghiệp phân phối trong lòng khách hàng chiến lược.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: xây dựng và phát triển thương hiệu trên thị trường nước ngoài gặp nhiều khó khăn hơn và tốn kém hơn. C hiến lược phát triển thương hiệu trên thị trường nước ngoài không phù hợp với mọi doanh nghiệp xuất khẩu. Với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, xuất khẩu chủ yếu là gián tiếp hoặc gia công thì trong giai đoạn này doanh nghiệp chỉ dừng lại ở việc chuẩn bị cho chiến lược phát triển thương hiệu trên thị trường nước ngoài. Với các doanh nghiệp có quy mô vừa, đã tham gia xuất khẩu trực tiếp ra thị trường nước ngoài bước đầu triển khai xây dựng thương hiệu trên các đoạn TTCL để đón đầu tương lai .
3.3.4. Nhóm giải pháp hoàn thiện nguồn lực quản trị TTCL của doanh nghiệp
3.3.4.1. Hoàn thiện tổ chức, nhân lực quản trị TTCL
138
Quản trị TTCL là một hoạt động quản trị tác nghiệp quan trọng, không thể thiếu trong bất cứ doanh nghiệp nào. Do vậy, trong tổ chức doanh nghiệp nhất thiết phải có một bộ phận chức năng triển khai hoạt động quản trị TTCL đảm bảo tính chuyên nghiệp.
Bộ phận quản trị TTCL trong doanh nghiệp có thể tồn tại dưới hình thức một bộ phận riêng biệt có mối quan hệ mật thiết với các bộ phận chức năng khác của doanh nghiệp hoặc tồn tại dưới hình thức là một chức năng chính của một bộ phận có liên quan đến hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Bộ phận quản trị TTCL dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào cũng phải có chức năng rõ ràng. Chức năng chủ yếu của bộ phận quản trị TTCL:
- Hoạch định kế hoạch phát triển TTCL
- Triển khai kế hoạch phát triển TTCL
- Kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh TTCL
Bộ phận quản trị TTCL chịu sự quản lý trực tuyến của các nhà quản trị cấp cao
trong doanh nghiệp.
Về nhân lực thực hiện quản trị TTCL : Bộ phận quản trị TTCL cần có những người được đào tạo bài bản về quản trị marketing vì quản trị TTCL là một phạm trù của khoa học marketing. Số lượng nhân sự của bộ phận này tùy thuộc vào quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Trong ngắn hạn và trung hạn: thiết kế bộ phận quản trị TTCL tích hợp trong một bộ phận chức năng phù hợp như bộ phận marketing hay bộ phận kinh doanh. Trong dài, hạn, bộ phận quản trị TTCL được thiết kế độc lập có chức năng rõ ràng trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
3.3.4.2. Hoàn thiện ngân quỹ quản trị TTCL
Ngân quỹ là một yếu tố không thể thiếu nhằm đảm bảo hoạt động quản trị TTCL. Theo khảo sát, phần lớn các doanh nghiệp có triển khai quản trị TTCL cho rằng còn thiếu ngân quỹ dành cho hoạt động này và việc sử dụn g ngân quỹ chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế có 4 phương pháp xác lập ngân quỹ: tùy theo khả năng, tỷ lệ % trên doanh số, ngang bằng cạnh tranh, phương pháp mục tiêu – nhiệm vụ. Mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm riêng. Với các DNVVN nên lựa chọn ph ương pháp tỷ lệ % trên doanh số sẽ tương đối phù hợp.
Theo đề xuất của NCS, trong ngắn hạn và trung hạn : ngân quỹ quản trị TTCL cần được trích lập từ ngân quỹ marketing, với tỷ lệ 10%-15% trên tổng ngân quỹ marketing. Trong dài hạn, ngân quỹ quản trị TTCL cần chiếm 15-25% trên tổng ngân quỹ marketing.
Để sử dụng hiệu quả ngân quỹ quản trị TTCL doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch hoạt động và dự trù chi tiết kinh phí cho hoạt động quản trị TTCL. Trên cơ sở ngân quỹ đã được dự trù chi tiết, các nhà quản trị có thể kiểm soát việc sử dụng ngân quỹ thường xuyên. Định kỳ có đánh giá hiệu quả sử dụng ngân quỹ quản trị TTCL dựa trên mức độ hoàn thành các mục tiêu của quản trị TTCL như: số lượng TTCL đã được định vị, vị thế của doanh nghiệp trên từng đoạn TTCL.
3.3.4.3 Hoàn thiện hệ thống và công nghệ thông tin TTCL
Hệ thống thông tin TTCL được cấu trúc bởi 3 bộ phận: thông tin TTCL, con người, thiết bị thông tin. Hệ thống thông tin TTCL là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định của doanh nghiệp trên TTCL. Nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển hệ thống thông tin tốt sẽ hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản trị ra quyết định nhằm phát triển TTCL và ngược lại. Hệ thống thông tin TTCL cũng được phát triển dựa trên hệ thống thông tin chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thu thập và xử lý thông tin, các doanh nghiệp cần chú ý phân loại, chọn lọc, xử lý và lưu trữ các thông tin TTCL đảm bảo đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin TTCL của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Các DNTM,DV vừa và nhỏ chưa chú trọng xây dựng và phát triển hệ thống thông tin nói chung và thông tin TTCL nói riêng. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện được các mục tiêu trong phát triển TTCL thì rất cần phải thiết lập được hệ thống thông tin TTCL có chất lượng. Để thực hiện được mục t iêu thiết lập hệ thống thông tin TTCL phục vụ quản trị TTCL, trong ngắn hạn và trung hạn, cần đổi mới nhận thức của các nhà quản trị DNTM,DV vừa và nhỏ về vấn đề thiết lập hệ thống thông tin TTCL. Thiết lập một hệ thống thông tin TTCL là yêu cầu cần thiết ở mọi doanh nghiệp dù ở quy mô nào. Các nhà quản trị phải có tư duy đúng đắn về vai trò của hệ thống thông tin TTCL, từ đó có kế hoạch cụ thể xây dựng và phát triển hệ thống thông tin TTCL tại doanh nghiệp.
Trong dài han, đầu tư vào công nghệ nhằm phục vụ thu thập và xử lý thông tin TTCL. Đầu tư công nghệ ở các DNTM,DV vừa và nhỏ cần tránh hai thái cực. Một là, đầu tư công nghệ hiện đại không cân đối với điều kiện nguồn lực của doanh nghiệp. Đầu tư như vậy sẽ không mang lại hiệu quả. Hai là, không đầu tư ho ặc mức đầu tư quá ít dẫn đến chất lượng của hệ thống thông tin TTCL bị ảnh hưởng .
3.3.4.4. Hoàn thiện kiểm tra, kiểm soát TTCL và phát triển chiến lược thị trường phù hợp cân bằng và thích ứng với thay đổi môi trường kinh doanh .
Kiểm tra, kiểm soát luôn là một khâu quan trọng trong mọi hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Việc kiểm tra, kiểm soát phải được thực hiện thường xuyên trong suốt quá trình quản trị TTCL .
Một là, kiểm tra, kiểm soát mục tiêu đề ra trong quản trị TTCL có phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh hay không. Khi các yếu tố môi trường kinh doanh thay đổi thì có thể xảy ra tình huống mục tiêu ban đầu của nhà quản trị trong phát triển TTCL không còn phù hợp, cần có sự điều chỉnh.
Hai là, kiểm tra, kiểm soát mức độ thực hiện mục tiêu trong quản trị TTCL. Khi kiểm tra, kiểm soát mức độ thực hiện mục tiêu không nên cứng nhắc mà cần tính toán đến sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh đối với việc thực hiện mục tiêu .
Trong ngắn hạn và trung hạn, việc kiểm tra, kiểm soát TTCL được thực hiện kết hợp cùng với kiểm tra kiểm soát thị trường chung của doanh nghiệp, các nhà quản trị cấp cao có thể yêu cầu tách bách báo cáo kết quả phát triển TTCL riêng để theo dõi. Trong dài hạn, kiểm tra, kiểm soát TTCL phải được thiết lập riêng biệt với các tiêu chuẩn kiểm soát và kế hoạch kiểm soát riêng do tầm quan trọng và mục tiêu hướng tới của TTCL khác biệt so với các thị trường thông thường.
3.4. Một số kiến nghị vĩ mô tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hài hòa cho quản trị TTCL của DNTM,DV vừa và nhỏ Hà Nội.
3.4.1. Kiến nghị Bộ công thương và các bộ ngành trung ương, địa phương
Các sở thương mại các tỉnh, thành phố cần tăng cường tổ chức các hội chợ thương mại theo đúng nghĩa. Trên thực tế, nhiều hội chợ thương mại được tổ chức nhưng nó không có nhiều tác dụng giúp các doanh nghiệp quảng cáo, giới thiệu về doanh nghiệp và sản phẩm của họ mà mang tính chất là nơi tiêu thụ hàng hóa. Do vậy, mỗi Sở thương mại các tỉnh cần nghiên cứu cách thức tổ chức các hội chợ sao cho đó là nơi để các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác kinh doanh và khách hàng.
Các địa phương cần có biện pháp hỗ trợ một phần kinh phí để các DNVVN tham gia hội chợ thương mại. Các địa phương không nên coi các hội chợ thương mại là nơi thu tiền của các doanh nghiệp như hiện nay. Cụ thể, các địa phương có thể trích ngân sách để hỗ trợ một khoản kinh phí lớn hơn cho các đơn vị tổ chức hội chợ,
đồng thời có những thỏa thuận nhất định với đơn vị tổ chức hội chợ về các khoản thu
đối với các DNVVN. Cách làm này thực chất đã gián tiếp cung cấp một khoản tài chính cho các DNVVN khi tham gia hội chợ thương mại.
Các địa phương có thể mở các phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm của các DNVVN trong địa phương. Các phòng trưng bày này có nhiệm vụ quảng bá về thương hiệu của các DNVVN ở địa phương. Để hoàn thành nhiệm vụ này, các phòng trưng bày phải luôn cập nhật những thông tin mới về sự phát triển của mỗi DNVVN trong địa phương cũng như các sản phẩm mới của họ để giới thiệu với công chúng.
Nghị định 57/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/1998 đã mở rộng cửa cho các DNVVN tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu. Theo Nghị định này tất cả các loại hình doanh nghiệp đều được phép tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi giấy phép đăng ký kinh doanh mà không cần phải có giấy phép xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên, nhiều DNVVN do hạn chế về kinh nghiệm nên đã không thực sự thành công trong các hoạt động xuất nhập khẩu. Để giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả xuất khẩu, cần phải hỗ trợ họ biết cách nghiên cứu thị trường xuất khẩu và lập chiến lược xuất khẩu. Các doanh nghiệp rất cần hiểu biết kỹ lưỡng về thị trường nước ngoài trước khi họ xâm nhập, điều này đảm bảo sự thành công cao cho các doanh nghiệp khi tiếp cận thị trường nước ngoài. Do đó, có thể mở các chương trình
đào tạo, tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp các kiến thức cần thiết để tiến hành nghiên cứu thị trường và lập chiến lược xuất khẩu. Hiện nay, Cục xúc tiến thương mại của Bộ thương mại đã có kinh nghiệm trong việc tổ chức các chương trình đào tạo tương tự, do đó việc giao cho đơn vị này chịu trách nhiệm tổ chức các lớp đào tạo là thích hợp. Kinh phí đào tạo sẽ được hỗ trợ một phần từ ngân sách Nhà nước rót trực tiếp cho Cục Xúc tiến thương mại, phần còn lại là do các doanh nghiệp đóng góp.
Tham gia hội chợ thương mại quốc tế cũng là một trong những cách để xúc tiến thương mại, tìm hiểu về thị trường nước ngoài, tìm kiếm đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, do ít thông tin về các hội chợ thương mại quốc tế cũng như chi phí tham gia các hội chợ này khá cao đã khiến cho không ít các DNVVN không thể áp dụng hình thức xúc tiến này.
Để giúp các DNVVN có thông tin về các hội chợ thương mại quốc tế, Cơ quan Cục xúc tiến thương mại cần cần cập nhật thường xuyên thông tin về các hội chợ mại quốc tế cho các DNVVN thông qua trang Web của Cục Phát triển DNVVN
Nhằm khuyến khích các DNVVN mạnh dạn tham gia các hội chợ thương mại quốc tế, có thể xây dựng chương trình hỗ trợ một phần tài chính cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ. Tất nhiên, không phải tất cả các DNVVN đều được hỗ trợ một phần kinh phí tham gia hội chợ thương mại quốc tế. Chỉ những doanh nghiệp nào sau khi tham gia khoá học đào tạo về nghiên cứu thị trường xuất khẩu và lập chiến lược xuất khẩu viết được báo cáo theo các nội dung đã trình bày ở phần trên. Cục xúc tiến thương mại sẽ là cơ quan có trách nhiệm thẩm định báo cáo, nhằm
đánh giá chất lượng công tác chuẩn bị trước khi tham gia hội chợ thương mại quốc tế. Đồng thời, trong bản báo cáo này doanh nghiệp phải lập kế hoạch chi tiết cho các hoạt động tham gia tại hội chợ và những kết quả khả quan có thể mang lại sau hội chợ.
3.4.2. Kiến nghị UBND và Sở ban ngành thành phố Hà Nội
Nâng cao chất lượng xây dựng và giám sát việc tuân thủ các quy tắc, quy chế, pháp luật, chủ thương chính sách chung vào hoàn cảnh của Thủ đô. Rà soát, kiên quyết cắt bỏ các quy định, thủ tục phiền hà gây bất lợi cho đời sống và kinh doanh theo đề án 30; áp dụng cơ chế “một cửa liên thông, một đầu mối” .
Hiện đại hóa thệ thống hành chính công và qu ản lý Nhà nước trên địa bàn như ứng dụng công nghệ thông tin và đối thoại trực tuyến, triển khai rộng rãi kê khai thuế, hải quan, đăng ký kinh doanh qua mạng.
Đẩy mạnh phát triển đồng bộ các loại thị trường, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển kinh doanh. Phát triển đồng bộ các loại thị trường trước hết cần phải hoàn thiện các thể chế thị trường.
Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp với thành phố. Định kỳ UBND thành phố tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp nhằm lắng nghe những khó khăn của các doanh nghiệp, cùng với các doanh nghiệp tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn. Trong thời gian vừa qua, thành phố đã triển khai đối thoại với các doanh nghiệp nói chung nhưng chưa thường xuyên. Bên cạnh đối thoại với các doanh nghiệp nói chung trên địa bàn thủ đô, UBND thành phố nên có những cuộc đối thoại với cộng đồng các DNVVN.
Thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận thông tin nhằm tháo gỡ cho doanh nghiệp. Trong quá trình triển khai các chủ trương của thành phố, không ít vướng mắc đã phát sinh. Chủ trương rõ r àng là rất đúng đắn nhưng khi triển khai lại không hiệu quả, nên cần có đường dây nóng nhằm tiếp nhận nhanh thông tin.
Thành phố cần có chủ trương hỗ trợ các DNVVN bán lẻ về mặt bằng kinh doanh để nâng cao khả năng cạnh tranh với các DN bán lẻ nước ngoài đ ã và đang chiếm lĩnh thị trường bán lẻ Hà Nội.
3.4.3. Kiến nghị Hiệp hội DNVVN Hà Nội
3.4.3.1. Tăng cường thông tin trên Website của hiệp hội:
Hiệp hội DNVVN Hà Nội đã có một khoảng thời gian hoạt động khá ổn định, hiệp hội đã phát huy hiệu quả một số hỗ trợ cho thành viên hiệp hội. Hiệp hội cũng đã có một website chính thức, tuy nhiên số lượng và chất lượng thông tin trên website chưa đảm bảo. Do vậy, hiệp hội cần nhanh chóng cải tổ trang web nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các thành viên của hiệp hôi. Thông tin trên Web cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Tính cập nhật: thông tin thị trường phải luôn được cập nhật giúp doanh nghiệp có định hướng thị trường đúng đắn.
- Có chất lượng: nhiều thông tin hiện nay không mang lại giá trị đích thực cho
doanh nghiệp.