Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Du Lịch Ở Việt Nam Hiện Nay

Bốn là: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc ban hành văn bản pháp luật còn thiếu đồng bộ, mang tính khép kín, việc chưa chú trọng đúng mức việc thăm dò, lấy ý kiến, xử lý và giải trình đầy đủ ý kiến nhân dân, chưa thu hút ý kiến đóng góp của đối tượng có liên quan, trực tiếp chịu sự tác động trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã lưu ý tới việc xin ý kiến của các cơ quan hữu quan. Song trên thực tế, các Bộ, ngành khác khi ban hành văn bản pháp quy liên quan đến du lịch thường không chú ý đến tham khảo ý kiến của ngành du lịch, đến khi thực hiện nảy sinh bất hợp lý mới quay lại sửa nên mất nhiều thời gian và hiệu quả không cao. Nhiều cá nhân, tổ chức chưa nhận thức được đầy đủ về trách nhiệm tham gia xây dựng pháp luật nếu có tham gia thì hiệu quả thấp do hạn chế về năng lực, trình độ.

Năm là: Trong thời gian qua, hoạt động kinh tế của đất nước phát triển, các quan hệ xã hội thay đổi liên tục, nhiều vấn đề mới trong hoạt động du lịch phát sinh, chưa có tiền lệ. Trong khi đó công tác dự báo xu hướng vận động của du lịch chưa được làm tốt, dẫn tới bị động khi ban hành văn bản pháp quy, tạo nhiều “khoảng trống” chưa được pháp luật điều chỉnh.. Pháp luật không theo kịp quan hệ xã hội đang vận động và phát triển không ngừng, nhất là trong ngành du lịch – một ngành kih tế mới, năng động. Du lịch luôn đòi hỏi các sản phẩm, loại hình du lịch mới…song để triển khai một loại hình du lịch mới như du lịch thể thao lại vướng phải nhiều quy định của các ngành liên quan.

Sáu là: Chưa có sự cân đối giữa công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Nhà nước còn tập trung nhiều vào xây dựng pháp luật luật, chưa quan tâm nhiều đến cơ chế thi hành pháp luật, các điều kiện đảm bảo thi hành pháp luật. Công tác theo dõi, quản lý, kiểm tra thi hành pháp luật chưa được chú trọng, chưa xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật. Thêm vào đó, kinh phí dành cho công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật hạn hẹp, khó đáp ứng được các yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và nay là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.

Bảy là: Trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương xuống các địa phương, lực lượng cán bộ làm công tác pháp chế rất mỏng. Nhiều người có trình độ pháp lý nhưng lại thiếu kiến thức chuyên ngành, nhiều cán bộ chuyên ngành nhưng khi tham gia xây dựng luật lại không có kiến thức chuyên sâu về pháp luật nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế được 4 năm nhưng vẫn chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể, vì vậy nhiều nội dung của Nghị định chưa được thực hiện hiệu quả, thậm chí vẫn chưa được thực hiện. Đặc biệt là quy định về chế độ, chính sách cho người làm công tác pháp chế.

CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển du lịch trong giai đoạn mới, ngày 08/12/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 92/2014/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh “Các cấp, các ngành cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, đem lại hiệu quả tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nhiều việc làm, góp phần xóa đói, giảm nghèo; tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm môi trường cho phát triển du lịch”.[17] .

Muốn phát triển du lịch, Chính phủ, các ngành, các cấp và toàn xã hội phải chung tay nỗ lực không ngừng, khắc phục những khó khăn, yếu kém về nhận thức xã hội, cơ sở hạ tầng, bộ máy tổ chức, đội ngũ nhân lực… Và một yếu tố quan trọng hàng đầu đó là hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch. Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch là yêu cầu, đòi hỏi khách quan, cấp bách ở Việt Nam hiện nay, vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

3.1.1. Đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật

Trong những năm tới, công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực du lịch nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; quán

Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay - 12

triệt thực hiện các nội dung mới được điều chỉnh, bổ sung trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI; các kết luận của Bộ Chính trị và các quy định Hiến pháp 2013 về bảo đảm sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; gắn đổi mới công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật với nhiệm vụ cải cách tư pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lượng cải cách tư pháp đến năm 2020…

Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch bằng pháp luật hiện nay có cơ sở khách quan của nó. Bởi chúng ta đang ở thời kỳ mở cửa nền kinh tế thị trường với sự đa dạng và ngày càng phức tạp của hoạt động du lịch về thành phần kinh tế, về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động. Hơn nữa, trước sức ép của cạnh tranh và vì mục tiêu của lợi nhuận càng làm cho các quan hệ kinh tế - xã hội trở nên sôi động, quyết liệt hơn. Trong điều kiện đó, để định hướng cho sự phát triển của hoạt động du lịch, đòi hỏi nhà nước phải có cơ chế, chính sách và đặc biệt là pháp luật. Với những tính năng vốn có của nó, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch nhằm tạo nhằm tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, ổn định, hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động du lịch phát triển sôi động nhưng có trật trự, giải quyết hài hòa các mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên có liên quan trong hoạt động du lịch và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực du lịch. Trong điều kiện hiện nay, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch còn góp phần bảo đảm nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của cơ quan nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể tham gia vào hoạt động du lịch được phát triển phù hợp với đặc điểm mỗi địa phương và thực tiễn Việt Nam.

Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật thông qua công tác pháp chế về du lịch, trong đó có công tác hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động du lịch theo hướng quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của từng chủ thể, đảm bảo tính khả thi, tính công khai – minh bạch…sao cho văn bản pháp luật sau khi ban hành là có thể thực hiện được ngay và đi vào cuộc sống,

không cần chờ hướng dẫn từ các cơ quan quản lý. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc và có phương pháp, bảo đảm hiệu lực thực thi của hệ thống pháp luật du lịch.

3.1.2. Đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh, tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng được phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý. Tiếp tục khẳng định chủ trương này tại Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII đã cụ thể thành năm quan điểm cơ bản: xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữa nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước và thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Với tinh thần tiếp tục ghi nhận năm quan điểm này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI bên cạnh việc khẳng định nâng cao nhận thức xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nâng cao năng lực quản lý và điều hành của nhà nước theo pháp luật; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương; nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc

thực hiện quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đã đưa ra nhiều giải pháp có ý nghĩa quan trọng được đặt ra một cách toàn diện như: Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội; tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để nhanh đưa vào cuộc sống; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, tổ chức tinh gọn và hợp lý; đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, hoàn thiện chế độ công chức, công vụ.

Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới về nội dung với ba điểm cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người; phát triển kinh tế thị trường và tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). [36]

Trước những yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực du lịch nói riêng càng cần thiết hơn bao giờ hết. Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch góp phần tạo lập một bộ máy hành chính đồng bộ, hiện đại, đơn giản mà hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, từ đó tiếp tục thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

3.1.3. Đáp ứng yêu cầu hội nhập của pháp luật trong lĩnh vực du lịch Việt Nam với khu vực và thế giới

Nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế với những quan hệ kinh tế

- xã hội mới rất đa dạng và năng động, đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các cam kết đa phương và song phương và mục tiêu toàn cầu hóa được các quốc gia hướng tới thì nhu cầu có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ là yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trong nước mà còn phải phù hợp với luật pháp quốc tế và luật pháp trong khu vực là sự thách thức của mỗi quốc gia. Bởi mọi quan hệ hợp tác dù dưới bất kỳ hình thức nào thì cũng phải dựa trên cơ sở của pháp luật.

Có thể nói hội nhập pháp luật trong lĩnh vực du lịch vừa là thách thức vừa là cơ hội thúc đẩy sự hoàn thiện theo hướng minh bạch hóa môi trường pháp lý của Việt Nam. Hội nhập trong lĩnh vực du lịch, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế, chính sách của pháp luật quốc tế. Các nguyên tắc quốc tế như thương mại tự do hóa, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử trong lĩnh vực du lịch sẽ được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Đây là công cụ quan trọng để du lịch Việt Nam có thể mở rộng hợp tác, tiếp cận thị trường quốc tế, đồng thời vẫn có cơ sở đảm bảo được lợi ích quốc gia nếu có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, thách thức đặt ra cũng rất lớn

– đó là thách thức phải cải thiện môi trường pháp lý liên quan đến du lịch, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thông lệ quốc tế và những quy định của các tổ chức quốc tế. Trong ngắn hạn, đây là một thách thức lớn của Việt Nam:

Thứ nhất: Hoạt động du lịch và hệ thống pháp luật về du lịch tuy đã có bước phát triển mạnh mẽ nhưng so với hệ thống pháp luật, chính sách phát triển du lịch của khu vực và thế giới vẫn còn một khoảng cách rất xa về đối tượng quản lý và khuôn khổ pháp lý;

Thứ hai: Việc rà soát, nhận diện và điều chỉnh những quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến du lịch và các chính sách phát triển du lịch vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa phù hợp với trình độ phát triển của du lịch Việt Nam là một quá trình hết sức khó khăn, phức tạp;

Thứ ba: Việc bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế, các quy định của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực du lịch mang tính bắt buộc theo đúng lộ trình đã cam kết là một thách thức rất lớn, nếu không tuân thủ được sẽ gặp phải những tranh chấp và thiệt hại nặng nề.

3.1.4. Đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới


Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành du lịch đã có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thu hút đầu tư; tạo nhiều việc làm; xóa đói giảm nghèo; nâng cao dân trí; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc; xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam năng động, thân thiện và hòa bình. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, thu nhập xã hội từ du lịch, tỷ lệ đóng góp của ngành du lịch trong GDP cả nước và năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực.

Bên cạnh những kết quả đạt được, du lịch Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, xung đột chính trị, tôn giáo, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, cạnh tranh thu hút khách giữa các nước trong khu vực ngày càng gay gắt đã tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch. Tình hình sản xuất kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng du lịch còn thấp. Mặt khác, nhận thức về phát triển du lịch ở nhiều nơi còn hạn chế; phối hợp liên ngành chưa hiệu quả; vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương tới địa phương chưa phát huy đầy đủ; hiệu quả hoạt động xúc tiến quảng bá chưa cao; nguồn khách quốc tế còn phụ thuộc vào một số thị trường; nhân lực du lịch và hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; đầu tư cho du lịch chưa tương xứng; một số chính sách thúc đẩy phát triển du lịch còn bất cập, chưa tháo gỡ kịp thời; an ninh, an toàn, vệ sinh môi trường tại một số điểm đến chưa được duy trì thường xuyên.

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 18/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí