Trước tình hình ấy, để khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên du lịch của đất nước, tận dụng cơ hội thuận lợi trong nước và quốc tế, tạo bước phát triển đột phá cho ngành du lịch trong thời kỳ mới, ngày 08/12/2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết 92/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới. Nghị quyết 92/NQ-CP tập trung vào những vấn đề vĩ mô và có tính liên ngành, các giải pháp mang tính đột phá, nêu rõ trách nhiệm của các Bộ, Ngành, địa phương trong quá trình triển khai. Nghị quyết đề ra nhiều giải pháp quan trọng như: nâng cao nhận thức xã hội về phát triển du lịch, tăng cường hỗ trợ của nhà nước cho phát triển du lịch, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm an ninh, an toàn để thu hút khách và phát triển du lịch, Hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp du lịch. Để thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp trên, vấn đề hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch được đặt ra hàng đầu:
- Về việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp du lịch: cần rà soát, nghiên cứu điều chỉnh các quy định pháp luật theo hướng nâng mức ưu đãi đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh các lĩnh vực khách sạn, lữ hành, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng; giảm thuế sử dụng đất và tiền thuê đất đối với các dự án đầu tư cơ sở lưu trú, khu du lịch sử dụng nhiều diện tích cho không gian cảnh quan; rà soát các quy định về nhập khẩu các trang thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dụng cần thiết để phát triển du lịch cao cấp mà trong nước chưa sản xuất được; quy định mức giá điện tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh du lịch.
- Về tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo an ninh, an toàn để thu hút khách và phát triển du lịch: nghiên cứu đề xuất mở rộng diện miễn thị thực, cải tiến thủ tục cấp thị thực, đẩy mạnh lộ trình mở cửa bầu trời, mở rộng thị trường du lịch quốc tế, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, khuyến khích thị trường nội địa phát triển.
- Về tăng cường quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương: cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch 2005; kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự trong lĩnh vực du lịch; chấn chỉnh và nâng cấp chất lượng phục vụ của ngành hàng không; bảo đảm vệ sinh môi trường, an ninh an toàn tại các nhà ga, bến tàu, cảng biển, các phương tiện vận chuyển hành khách; tăng cường phối hợp quản lý hoạt động du lịch tại các điểm đến; khẩn trương hình thành Trung tâm hỗ trợ du khách tại các địa bàn du lịch trọng điểm; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của khách du lịch nước ngoài; bảo vệ môi trường và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho khách du lịch tại các khu du lịch, điểm du lịch...
Để đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch là tất yếu khách quan.
3.2. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Mục tiêu
Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam là một nội dung, phương hướng cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoàn thiện pháp luật theo tiêu chí nhà nước pháp quyền là một vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực. Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài mục tiêu chung trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đáp ứng yêu cầu và tiêu chí của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là một hệ thống pháp luật đảm bảo tính công khai, minh bạch, tính khả thi của các quy định pháp luật, tính đồng bộ và thống nhất của các văn bản, tính phù hợp giữa pháp luật với các hình thức điều chỉnh khác, giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia với pháp luật khu vực và thế giới.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay - 10
- Nguyên Nhân Của Hạn Chế, Bất Cập Của Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Du Lịch Ở Việt Nam Hiện Nay
- Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Trong Lĩnh Vực Du Lịch Ở Việt Nam Hiện Nay
- Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay - 14
- Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam hiện nay - 15
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Thực hiện đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới, mục tiêu của việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch chính là việc hướng tới hoàn thiện cả về hình thức và nội dung của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch; sửa đổi bổ sung các quy định hạn chế, bất cập của Luật Du lịch sau 10 năm thực hiện không còn phù
hợp với các quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong lĩnh vực du lịch; bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Du lịch với các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác; bảo đảm sự phù hợp giữa các quy định pháp luật với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nguyện vọng của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch nhằm tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thông thoáng, minh bạch, thuận lợi cho hoạt động du lịch phát triển; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, người dân tiếp cận, tìm hiểu, áp dụng một cách thuận tiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực du lịch.
3.2.2. Phương hướng
Việc xác định phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải gắn liền với các quan điểm chỉ đạo, định hướng và mục tiêu phát triển du lịch trong thời kỳ mới của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đó là:
Quan điểm:
- Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và hiệu quả, đảm bảo thương hiệu và khả năng cạnh tranh.
- Phát triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế; chú trọng du lịch quốc tế đến; tăng cường quản lý du lịch ra nước ngoài.
- Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.
- Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền trong cả nước; tăng cường liên kết phát triển du lịch.
Mục tiêu tổng quát: Đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đai; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Các định hướng về: Phát triển sản phẩm du lịch; phát triển hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch; phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch; đầu tư phát triển du lịch; hợp tác quốc tế về du lịch; quản lý nhà nước về du lịch.
Như vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải dựa trên quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển, vừa giải quyết những nhu cầu bức xúc nảy sinh trong hoạt động du lịch vừa nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, hiệu quả, với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải đảm bảo các phương hướng sau:
+ Pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải thế chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch
Việc xây dựng và phát triển ngành dịch vụ du lịch đã được Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI như sau: “Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong nước; đa dạng hóa thị trường ngoài nước… Đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình dịch vụ, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế” [45]. Và hiện nay, để khai thác, phát huy hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên du lịch của đất nước, tận dụng các cơ hội trong nước và quốc tế, tạo bước
phát triển đột phá cho ngành du lịch trong thời kỳ mới, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch trong thời kỳ hiện nay. Việc hoàn thiện pháp luật về du lịch phải bám sát, thể chế hóa kịp thời và đầy đủ các quan điểm chỉ đạo trên.
+ Cụ thể hóa và phát triển các quy định trong Luật Du lịch hiện hành
Sau 10 năm thực hiện Luật Du lịch 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, bên cạnh việc bộc lộ nhiều yếu kém, tồn tại còn có nhiều vấn đề chỉ được quy định chung chung, mang tính khẩu hiệu do đó gặp phải nhiều vướng mắc khi áp dụng vào thực tế. Việc xây dựng, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về du lịch là nhân tố quan trọng nhất trong việc tạo ra nền tảng và sự hỗ trợ phát triển của doanh nghiệp du lịch cũng như năng lực cạnh tranh của ngành, đảm bảo sự phát triển bền vững.
+ Pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành
Việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các luật chuyên ngành khác như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ tài nguyên và môi trường, Luật Giao thông vận tải…đặc biệt là các Luật mới ban hành: Luật Ban hành văn bản 2015, … Công tác xây dựng luật, pháp lệnh nói chung đang chịu quá nhiều sức ép vì yêu cầu quá lớn trong việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật để quản lý, điều hành đất nước.
Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực du lịch là giải pháp then chốt để đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động du lich
+ Pháp luật trong lĩnh vực du lịch đáp ứng nhu cầu thực tiễn của hoạt động du lịch trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Du lịch Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Do đó, cần phải lồng ghép, cụ thể hóa những nội dung của cam kết quốc tế trong lĩnh vực du lịch vào nội dung của các văn bản pháp luật về du lịch. Các điều khoản của nội dung các hiệp định quốc tế liên quan đến du lịch đã tham gia ký kết cần phải
được công khai và cụ thể hóa đầy đủ. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, rà soát, đối chiếu hệ thống các văn bản có liên quan đến du lịch của Việt Nam với hệ thống luật lệ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia có ký kết hợp tác song phương. Đề xuất, kiến nghị để điều chỉnh hệ thống pháp văn bản luật của Việt Nam cho phù hợp với các quy định quốc tế đồng thời đưa ra được những khuyến cáo cho doanh những doanh nghiệp, người dân để ứng phó với hệ thống pháp luật nước ngoài trong quá trình hội nhập.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.3.1. Hoàn thiện hình thức của pháp luật trong lĩnh vực du lịch
Hiện nay, hoạt động du lịch ở Việt Nam được điều chỉnh theo quy định tại Luật Du lịch 2005 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành, ngoài ra còn rất nhiều nội dung về quản lý du lịch nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác: Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009; Luật Bảo vệ tài nguyên và môi trường 2005; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005; Luật Giao thông đường bộ 2008; Luật Doanh nghiệp 2014…; Nghị định số 57/2015/NĐ-CP ngày 16/6/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2013/NĐ-CP ngày 04/11/2013 của Chính phủ quy định về quản lý phương tiện cơ giới do người nước ngoài đưa vào Việt nam du lịch…Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật về du lịch của nước ta vẫn thiếu tính toàn diện, chưa đầy đủ, đồng bộ còn chồng chéo và không thống nhất ở một số lĩnh vực, thậm chí mâu thuẫn, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Trước sự tác động của những thay đổi quan hệ xã hội và dẫn đến việc thực hiện Luật Du lịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Du lịch còn nhiều bất cập, vướng mắc. Những bất cập, vướng mắc này không thể giải quyết triệt để ở các văn bản quy định chi tiết thi hành do các quy phạm gốc tại Luật Du lịch đã bất cập, không phù hợp nên các quy phạm tại văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành không thể vượt ra ngoài quy phạm gốc. Như vậy, trong một chừng mực nhất định,
các quy định pháp luật hiện hành về du lịch có thể nói vừa thiếu lại vừa thừa, tính hệ thống chưa cao, nên có thể gây khó khăn nhất định cho việc thực thi. Các quy định về các lĩnh vực cụ thể cần được sửa đổi và bổ sung để du lịch phát triển như một ngành kinh tế mũi nhọn.
Trước tình hình đó, ngày 09/6/2015, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 89/2015/QH13 điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2015 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Nghị quyết này đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV (dự kiến tháng 10/2016). Việc sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch 2005 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành sẽ góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong lĩnh vực du lịch, tạo ra sự đổi mới đồng bộ, thống nhất, phù hợp không chỉ về nội dung mà còn cả về hình thức với các yêu cầu cơ bản: văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước phải được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục; đảm bảo tính thứ bậc văn bản pháp luật; vừa đồng bộ với pháp luật trong nước, vừa phù hợp với trình độ và thông lệ pháp luật quốc tế.
3.3.2. Hoàn thiện nội dung của pháp luật trong lĩnh vực du lịch
a. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật trong lĩnh vực du lịch
Như đã phân tích ở trên, Luật Du lịch 2005 cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối chi tiết các nội dung liên quan đến hoạt động du lịch, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động du lịch phát triển và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên quá trình nghiên cứu, xây dựng Luật Du lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa lường hết được các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, nên tồn tại nhiều bất cập, vướng mắc. Những bất cập, vướng mắc này làm cho hoạt động du lịch gặp nhiều khó khăn, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch bối rối trong việc ban hành những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động du lịch gây khó khăn trong việc thực hiện các quy định của Luật hoặc những quy định của Luật xa rời thực tế,
không có khả năng đi vào đời sống. Có những quy định của luật sau khi có hiệu lực đã gây áp lực lớn đối với thực trạng quan hệ xã hội đang tồn tại như quy định về việc công nhận khu du lịch, điểm du lịch sau khi đã được đầu tư, xây dựng hoàn chỉnh, như vậy sẽ không kêu gọi được xã hội hoá, có nhà đầu tư đầu tư xây dựng khu du lịch, điểm du lịch, các quy định về hướng dẫn viên du lịch quốc tế,...Có những quy định buông lỏng không quản lý dẫn đến tình trạng quan hệ xã hội phát triển lộn xộn không quản lý được như bỏ mức ký quỹ đối với doanh nghiệp lữ hành nội địa. Nhiều quy định trong Luật Du lịch cần được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và tương lai khi nước ta hội nhập sâu, rộng với khu vực và quốc tế để thúc đẩy sự nghiệp du lịch phát triển. Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực du lịch một mặt phải tạo ra động lực cho các chủ thể của hoạt động du lịch mặt khác phải đảm bảo bình đẳng trong kinh doanh du lịch giữa các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân được phép kinh doanh du lịch, tạo môi trường thuận lợi trong quan hệ giữa các chủ thể đó.
Theo quan điểm, nguyên tắc xây dựng pháp luật và các yêu cầu thực tiễn, pháp luật trong lĩnh vực du lịch (chủ yếu là Luật Du lịch 2005) cần được sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:
Về các quy định chung
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các khái niệm, thuật ngữ trong Luật Du lịch theo hướng quy định chính xác, đảm bảo phù hợp với khái niệm, thuật ngữ trong thông lệ quốc tế và thực tế phát triển du lịch của Việt Nam.
Ví dụ: bổ sung một số khái niệm nhằm tạo thuận lợi cho quá trình quản lý hoạt động kinh doanh du lịch của các cơ quan và hoạt động kinh doanh du lịch của các tổ chức, cá nhân: “kinh doanh lữ hành”, “lữ hành nội địa”, “lữ hành quốc tế”, “hướng dẫn viên du lịch”, “du lịch MICE”, “du lịch có trách nhiệm”, “thương hiệu du lịch”, “loại hình du lịch”, “chỉ tiêu thống kê về du lịch” “điểm đến”, “bất động sản du lịch”... Sửa đổi khái niệm “khu du lịch”, “khách du lịch”, “tài nguyên du lịch”..., sửa đổi cụm từ “trong một khoảng thời gian nhất định”...