Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay - 2

trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Đặc biệt, Điều 26 Hiến pháp nhấn mạnh: Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

Thực tế kể trên đặt ra nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ, qua đó giúp phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng hiệu quả hơn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước. Vì vậy, đề tài: "Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay" được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề quyền con người, quyền phụ nữ ở Việt Nam, tiếp cận từ nhiều khía cạnh như quyền chính trị, quyền lao động... Có thể kể đến như:

- Những công trình nghiên cứu về quyền con người: Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luật và pháp luật về quyền con người, NXB, chính trị Quốc gia, 2009; Viện khoa học xã hội Việt Nam với các sách: Quyền con người – tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học (tập I, II), NBX. Khoa học xã hội, 2010; Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, 2011; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb. Khoa học xã hội, 2011 do GS.TS.Võ Khánh Vinh. Đây là những công trình nghiên cứu đề cập tới những vấn đề lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người dưới góc độ luật học, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ bằng cơ chế pháp luật.

- Những công trình nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền của phụ nữ ở

Việt Nam, có thể kể đến chùm bài viết cuả tác giả Hoàng Thị Kim Quế, như: "Phụ nữ: những ưu ái và thiệt thòi - nhìn từ góc độ xã hội, pháp lý", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9, 2003; Một số vấn đề về phụ nữ, hôn nhân và gia đình trong pháp luật Việt Nam qua các thời đại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 3/2001, tr. 14-19; Những đặc thù và sự phát Triển của pháp luật về phụ nữ, hôn nhân và gia đình ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2002, tr. 3-12; Phụ nữ với những ưu ái và những thiệt thòi - nhìn từ góc độ xã hội - pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9/2003, tr 73-79.

Hay "Công ước của Liên hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ " của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Ở khía cạnh khác, có bài Bảo vệ quyền của phụ nữ bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của tác giả ThS. Chu Thị Trang Vân (Bộ Môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội).

- Một số luận văn khoa học nghiên cứu về quyền phụ nữ như: Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Mai Hiên (Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2008); Bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong pháp luật lao động Việt Nam của tác giả Bùi Quang Hiệp (Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2007),…

Tuy các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến đề tài luận văn, nhưng đều chưa nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ trong góc độ của cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền con người, quyền phụ nữ; cũng như các quy phạm pháp luật và những giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền và bảo vệ quyền của phụ nữ. Do vậy, đề tài: “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay” là công trình khoa học độc lập, không trùng lắp với các công trình đã được bảo vệ tại các cơ sở đào tạo luật học ở Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Trong quá trình nghiên cứu những nội dung của đề tài, tác giả có kế thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu ở các công trình khoa học nêu trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay - 2

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua phân tích thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam, Luận văn hướng tới xây dựng các giải pháp pháp lý để góp phần hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận của quyền phụ nữ;

- Làm rõ cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ quyền phụ nữ trong góc độ là hệ thống các cơ chế bảo vệ quyền con người;

- Chỉ ra những đòi hỏi tất yếu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ;

- Phân tích thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Quy định và thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam;

- Tính khả thi và nội dung của những giải pháp được đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Quy định pháp luật về quyền và bảo vệ quyền của phụ nữ, chủ yếu trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình…

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền; chính sách, pháp luật về phụ nữ và phát triển phụ nữ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn kế thừa kết quả nghiên cứu của nhiều công trình khác đã được công bố.

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

So sánh với các công trình khoa học khác trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến nội dung đề tài, luận văn có một số đóng góp mới về khoa học như sau:

Về cách tiếp cận: Luận văn tiếp cận nghiên cứu về điều chỉnh pháp luật đối với việc bảo vệ quyền phụ nữ dưới góc độ là một cơ chế bảo vệ quyền con người.

Về nội dung: Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn pháp lý có liên quan và các điều kiện tác động về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam, luận văn khái quát hóa, phân tích và đánh giá hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ; đề xuất và luận chứng những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong điều kiện thi hành Hiến pháp năm 2013 và Luật Bình đẳng giới năm 2006.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Với kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề

lý luận về điều chỉnh pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ; thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật, quyền chính trị của phụ nữ trong các trường đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng của Đảng và Nhà nước.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 2 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM


1.1. Cơ sở lý luận về quyền phụ nữ và bảo vệ quyền phụ nữ

1.1.1. Quyền phụ nữ là một nội dung của quyền con người

1.1.1.1. Khái niệm về quyền con người, quyền phụ nữ

Không phải trong lịch sử nhân loại ngay lập tức xuất hiện khái niệm quyền con người như chúng ta hiểu ngày nay. Từ thời xa xưa, khi xã hội mới xuất hiện sự phân chia giai cấp thì chỉ những người thuộc giai cấp thống trị mới được gọi là “con người”, còn những người khác thì bị coi là nô lệ, nô tì hoặc đơn giản chỉ là “những cây sậy biết nói”. Quyền con người lúc đó là quyền của kẻ mạnh, tức là kẻ thống trị trong xã hội.

Mãi đến thời đại ánh sáng với đóng góp của các nhà tư tưởng khai sáng và sau này là các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp, các nhà khoa học kinh tế chính trị ở Anh và các nhà triết học cổ điển Đức mới xuất hiện khái niệm quyền con người. Tất nhiên, sự phát triển tư tưởng, lý luận này phản ánh những biến đổi mang tính cách mạng và phản ánh những thành quả của sự tiến bộ do các cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng tư sản và cách mạng khoa học – kỹ thuật từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đem lại cho loài người. Quyền con người được hiểu là quyền tự nhiên vốn có của con người. Con người là sản phẩm tối cao của sự tiến hóa sinh học, do đó con người sinh ra đã có những quyền tối cao mà ai cũng phải công nhận và không ai có quyền vi phạm. Đó là những quyền gì và được thừa nhận như thế nào? Lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc trước toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội đã viết: “Tất cả mọi người đều

sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [19].

Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [19, tr.555].

Qua đó có thể thấy rõ ba điều rất quan trọng sau đây khi nói đến quyền con người:

Thứ nhất, mặc dù quyền con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng về quyền lợi, quyền mưu cầu hạnh phúc là tự nhiên do tạo hóa ban tặng cho mỗi con người nhưng các quyền đó không phải đã được mọi người tức là xã hội thừa nhận, tôn trọng ngay lập tức. Để các quyền có tính chất tự nhiên, vốn có đó không bị tước đoạt thì con người phải đấu tranh giành giữ và tìm cách thực hiện trên thực tế. Về điều này phải ghi nhận thành quả của các cuộc cách mạng tư sản trong việc phá bỏ trật tự phong kiến và thiết lập trật tự xã hội mới, ở đó các quyền con người được ghi nhận, thừa nhận mặc dù để thực hiện các quyền đó là cả một quá trình biến đổi xã hội lâu dài đòi hỏi giai cấp vô sản phải hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Thứ hai, mặc dù quyền con người là những quyền không ai chối cãi được và không ai xâm phạm được, nhưng trên thực tế, các quyền đó phải được thiết chế hoá thành những quy định mang tính pháp luật trên các cấp độ khác nhau như luật pháp quốc tế, luật pháp quốc gia và các văn bản quy phạm pháp luật của các tổ chức, cộng đồng cũng như các hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa, đạo đức, ứng xử hàng ngày.

Về mối quan hệ giữa quyền con người và pháp luật, nhà khoa học Amartya Sen từng được giải thưởng Nobel về kinh tế đã viết rất rõ như sau: Thực tế thì con người không sinh ra với các quyền con người cũng như không sinh ra đã mặc sẵn quần áo. Quyền có được là nhờ pháp luật, quần áo có được là nhờ dệt, may [1].

Thứ ba, quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, quyền cá nhân gắn liền với quyền xã hội với tư cách là cộng đồng, quốc gia, quốc tế. Xã hội biến đổi thì khái niệm về quyền con người cũng biến đổi: dân tộc có giành được quyền độc lập, tự do, bình đẳng thì con người mới có thể giành được quyền độc lập, tự do, bình đẳng. Điều ngược lại này cũng không kém phần quan trọng; như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: mỗi người dân có quyền độc lập, tự do, hạnh phúc thì quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của cả dân tộc mới thực sự có ý nghĩa.

Qua đó có thể thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc, quyền cá nhân và quyền xã hội. Con người bằng hoạt động có ý thức của mình có thể mở rộng các quyền con người của mình và qua đó các quyền của xã hội cũng được mở rộng, phát triển; đồng thời xã hội với các thiết chế pháp luật của nó có thể công nhận, bảo vệ và bảo đảm cơ chế để các quyền con người được thực hiện trên thực tế.

Về mặt nhận thức và về mặt pháp lý, quyền phụ nữ là một bộ phận tất yếu của quyền con người. Về nguyên tắc lý luận và pháp lý, phụ nữ có đầy đủ các quyền con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng về quyền lợi với nam giới. Quyền phụ nữ cũng không tự nhiên đem đến cho phụ nữ mà phải đấu tranh giành giữ, bảo vệ và thực hiện thông qua quá trình hành động cách mạng, hành động pháp luật và hành động thực thi trên thực tế các quyền. Về nguyên tắc, quyền phụ nữ phụ thuộc vào thành quả của quá trình biến đổi, phát triển xã hội; và việc thừa nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2024