Tiêu Chí Hoàn Thiện Pháp Luật Phòng, Chống Mua Bán Phụ Nữ, Trẻ Em

một mặt phải có quan điểm tổng quát để có thể xác định tính chất chung của mỗi ngành luật, cơ cấu các chế định, mặt khác phải có quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác các tình huống và hoàn cảnh cụ thể, từ đó đề ra các qui phạm phù hợp.

- Tiêu chí về tính phù hợp: tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở nhiều mặt như là: phù hợp với kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các quy phạm xã hội khác.

Tiêu chí hệ thống pháp luật phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao; kỹ thuật pháp lý là một vấn đề rộng lớn, phức tạp trong đó có ba điểm quan trọng đó là:

+ Kỹ thuật pháp lý thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật;

+ Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp

luật;


+ Cách biểu đạt ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô đọng, lôgíc, chính xác và

một nghĩa [39, tr. 408-409].


Mặc dù cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có một đạo luật riêng về phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em. Nhưng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã có các qui định về bảo vệ phụ nữ, trẻ em theo các nội dung sau:

- Các qui định mang tính phòng ngừa nhằm ngăn chặn nhưng nguyên nhân, điều kiện và hoàn cảnh dẫn đến các hành vi mua, bán phụ nữ, trẻ em.

- Các qui định mang tính trừng phạt, răn đe được áp dụng đối với các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến việc mua, bán phụ nữ, trẻ em, đó là các chế tài hành chính và chế tài hình sự được áp dụng đối với các vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, các qui định hiện hành nêu trên đã bộc lộ ra những bất cập, thiếu sót, nên đã hạn chế hiệu quả của công tác phòng, chống mua, bán phụ nữ, trẻ em.

1.2.2.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em


Xác định của tiêu chí để hoàn thiện pháp luật trong từng lĩnh vực xã hội nói chung, trong lĩnh vực phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng để xác định phương hướng chung các nhiệm vụ cụ thể để hoàn thiện pháp luật. Là một lĩnh vực pháp luật mới hình thành và phát triển ở nước ta nên việc xác định được các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em cũng gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, vận dụng lý luận chung về nhà nước và pháp luật, phân tích hệ thống pháp luật Việt Nam, dự kiến các nội dung cần điều chỉnh của các quan hệ xã hội trong phòng, chống mua bán, phụ nữ, trẻ em, chúng tôi cho rằng hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em theo những tiêu chí như sau:

Thứ nhất, tiêu chí về tính hợp hiến, hợp pháp: Điều 146 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 qui định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp" [31]. Như vậy, pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, khi hoàn thiện đều phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc tạo nên sự phù hợp trong hệ thống pháp luật. Cụ thể là phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp.

Thứ hai, tiêu chí về tính đầy đủ, đồng bộ: phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em là một vấn đề phức tạp, nó liên quan đến nhiều ngành luật, nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Do vậy, hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em phải đảm bảo tính đầy đủ và đồng bộ, bởi vì chỉ khi có đầy đủ các qui phạm pháp luật về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em (tính toàn diện) và các qui phạm pháp luật này không có sự trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn (tính thống nhất) trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em, thì công tác này mới phát huy hiệu quả.

Thứ ba, tiêu chí về tính khả thi và hiệu quả: pháp luật nói chung cũng như pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng, với những thuộc tính của mình đã trở thành một công cụ quản lý xã hội không thể thay thế trong thời đại hiện nay và cũng không có một công cụ quản lý nào có thể so sánh với pháp luật về tính hiệu quả trong quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp

luật thì một trong những yêu cầu quan trọng là phải nâng cao hiệu quả của pháp luật, phát huy tới mức cao nhất vai trò và những giá trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật có hiệu quả phải là pháp luật phục vụ cho những mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, phải góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy hiệu quả trong pháp luật phải bao hàm tất cả những gì phản ánh khả năng tác động tốt nhất, nhiều nhất của pháp luật lên các quan hệ xã hội, phản ánh sự hiện thực hóa những giá trị của pháp luật mà nhà làm luật dự tính khi ban hành pháp luật [45, tr. 513].


1.3. YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM

1.3.1. Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng

1.3.1.1. Quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng là những quyền hiến định

Ngay từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, các quyền cơ bản của con người nói chung trong đó có quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được bản hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) ghi nhận như một lời khẳng định về một nền dân chủ thực sự được thiết lập lần đầu tiên tại Đông Nam Á. Điều 9 Hiến pháp năm 1946 qui định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện"; Điều 14 Hiến pháp năm 1946 qui định: "Những người công dân già cả hoặc người tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được chăm sóc về mặt giáo dưỡng". Cùng với sự phát triển của đất nước, quyền phụ nữ và trẻ em ngày càng được ghi nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn tại các bản hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992. Điều 24 Hiến pháp năm 1959 qui định:

Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của

người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình [31].

Điều 63 Hiến pháp năm 1980 qui định:


Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác xã. Nhà nước và xã hội chăm lo phát triển nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi [31].

Điều 65 Hiến pháp năm 1980 qui định: "Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ em được bảo đảm". Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định:

Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo qui định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và cá cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện phát triển cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ [31].

Điều 65 Hiến pháp năm 1992 qui định: "Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục". Cụ thể hóa các qui định của hiến pháp về quyền phụ nữ và trẻ em, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành một lần nữa đã khẳng định quyền phụ nữ và trẻ em được đảm bảo trên các mặt của đời sống xã hội như: Bộ luật hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Bộ luật lao động năm 2002; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm2004; Bộ luật lao động năm 2005...và nhiều văn bản pháp luật khác.

Như vậy, quyền phụ nữ, trẻ em là quyền con người, được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp của Nhà nước ta qua các thời kỳ. Các quyền này được ghi nhận về bản chất là quyền hiến định và có nội dung ngày càng được hoàn thiện. Quyền phụ nữ, trẻ em không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà Nhà nước ta còn cụ thể hóa các quyền này trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, đã tạo thành một hệ thống văn bản về quyền của phụ nữ và trẻ em.

1.3.1.2. Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em để bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em

Chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn đó là, trong khi quyền con người nói chung, cũng như quyền phụ nữ, trẻ em nói riêng đã được hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác ghi nhận và bảo vệ, thì lại có một bộ phận phụ nữ và trẻ em - những nạn nhân của hành vi mua bán người, đã và đang bị chà đạp lên phẩm giá, bị tước bỏ quyền được sống hạnh phúc và bình yên. Có thể nói rằng, mua bán phụ nữ, trẻ em là một tệ nạn và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh, cũng như quá trình hội nhập kinh tế thế giới đã làm cho tệ nạn này có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại. Để ngăn chặn, tiến tới loại bỏ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản qui phạm pháp luật. Tuy nhiên, trước những diễn biến hết sức phức tạp của tệ nạn này, hệ thống văn bản qui phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, dẫn đến hạn chế hiệu quả của công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật phòng chống mua bán phụ nữ, trẻ em là để nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em để bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em.

1.3.2. Hoàn thiện pháp luật ở nước ta đòi hỏi phải hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng

Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới, nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế, công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hóa đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Nhưng, nhìn chung hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế, thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.

Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.

Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, ngày 24 tháng 5 năm 2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW đã đề ra mục tiêu: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới

căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự, do dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Như vậy, pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em sẽ là một trong những lĩmh vực pháp luật tất yếu cần phải được hoàn thiện khi đặt trong tổng thể chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị.


1.3.3. Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này

Mua bán người nói chung trong đó có mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng đã không còn là vấn đề của riêng bất kỳ một quốc gia nào, mà nó đã vượt qua biên giới mỗi quốc gia và trở thành vấn nạn mang tính toàn cầu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hợp tác quốc tế trong việc ngăn chặn và loại bỏ tệ nạn mua bán phụ nữ, trẻ em, Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên của nhiều điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em như: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (phê chuẩn 17/02/1982), Công ước về quyền trẻ em (phê chuẩn 28/09/1990), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho công ước về quyền trẻ em, về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (phê chuẩn 20/12/2001), Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho công ước về quyền trẻ em về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang (phê chuẩn 20/12/2001), Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (phê chuẩn 19/12/2000), Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (ký 13/12/2000). Như đã nêu, mua bán phụ nữ và trẻ em đã và đang là vấn nạn toàn cầu, các quốc gia trong đó có Việt Nam phải hợp tác quốc tế để đấu tranh phòng, chống tệ nạn này. Tuy nhiên, so sánh các quy phạm của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã tham gia (đã phê chuẩn), cho thấy còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, so sánh, đối chiếu để xác định lộ trình, công việc phải làm. Việt Nam cũng đang trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị để có thể tham gia một số điều ước quốc tế

có liên quan nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh với tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nói chung và tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, giữa pháp luật Việt Nam hiện hành và pháp luật quốc tế còn có những quan niệm chưa thống nhất, hay nói cách khác, pháp luật Việt Nam còn nhiều điểm chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Có thể so sánh sự chưa tương thích đó như sau:


Pháp luật Việt Nam

Pháp luật quốc tế

Nghị quyết số 04-HĐTP của Hội đồng

Khoản a, Điều 3 Nghị định thư về việc

thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị

hướng dẫn áp dụng một số quy định của

việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ

Bộ luật hình sự: " Mua bán trẻ em là

và trẻ em quy định: " Buôn bán người

việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích

được hiểu là việc tuyển mộ, vận

tư lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay

chuyển, chuyển giao, chứa chấp và

mua của chính người có con đem bán.

nhận người nhằm mục đích bóc lột

Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa

bằng cách sử dụng hay đe dọa sử dụng

trẻ bị bắt trộm để về làm con nuôi cũng

vũ lực hay bằng các hình thức ép buộc,

bị xử lý về tội mua bán trẻ em".

bắt cóc, lừa gạt, man trá hay lạm dụng

Pháp luật Việt Nam chưa giải thích khái

quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn

niệm "mua bán phụ nữ".

hay bằng việc đưa hay nhận tiền hay lợi

Pháp luật Việt Nam không nêu vấn đề

nhuận để đạt được sự đồng ý của một

"mua bán đàn ông".

người kiểm soát đối với những người

Pháp luật Việt Nam sử dụng thuật ngữ

khác. Hành vi bóc lột sẽ bao gồm, ít

"mua bán".

nhất, việc bóc lột mại dâm những người

Tội phạm "mua bán phụ nữ, trẻ em"

khác hay những hình thức bóc lột tình

được coi là hoàn thành khi hành vi mua

dục khác, các hình thức lao động hay

bán được thực hiện.

dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những

Mục đích bóc lột không phải là dấu hiệu

hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc

bắt buộc của tội phạm "mua bán phụ nữ,

việc lấy các bộ phận cơ thể".

trẻ em"


Điều 1 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo

Khoản d, Điều 3 Nghị định thư về việc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay - 3

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí