Về không gian: Môi trường thu hút vốn đầu tư FDI tại Bình Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Những phương pháp chung
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng quan điểm đường lối của Đảng trong lĩnh vực thu hút FDI kết ghợp với việc sử dụng các phương pháp phân tích-tổng hợp, lô-gich-lịch sử, trừu tượng hóa, mô hình hóa, so sánh, thống kê.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Kết hợp phương pháp nghiên cứu tại bàn nhằm phân tích tổng hợp các tài liệu, dữ liệu, số liệu thứ cấp với thực hiện điều tra khảo sát trên hiện trường thông qua phương pháp nghiên cứu định tính.
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tại bàn, phân tích tổng hợp từ các nguồn dữ liệu thứ cấp
- Nội dung của dữ liệu và số liệu thu thập: Các dữ liệu định tính và số liệu định lượng về môi trường thu hút FDI và kết quả thu hút FDI ở Bình Dương.
- Nguồn số liệu và dữ liệu: từ UBND tỉnh Bình Dương; Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương; Bản Quản lý Các KCN tỉnh Bình Dương; Cục Thống kê tỉnh Bình Dương. Đồng thời, tổng hợp thông tin từ các bài báo, tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu của các tác giả có liên quan.
- Phương pháp xử lý: Sau khi thu thập các dữ liệu, tác giả tiến hành chọn lọc dữ liệu phù hợp để sử dụng trong luận văn. Thực hiện quá trình phân tích theo từng nội dung, tiêu chí làm cơ sở cho việc tổng hợp khái quát, rút ra các nhận định, đánh giá cần thiết về FDI và môi trường thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 1
- Hoàn thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 2
- Phân Loại Các Hình Thức Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Hiệu Quả Của Việc Hoàn Thiện Môi Trường Thu Hút Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài.
- Những Bài Học Cho Tỉnh Bình Dương Từ Kinh Nghiệm Thực Tiễn Trong Và Ngoài Nước
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
5.2.2. Phương pháp điều tra khảo sát thông qua nghiên cứu định tính
- Loại hình khảo sát: Phỏng vấn sâu bán cấu trúc.
- Nội dung khảo sát: ý kiến của những người được phỏng vấn về đánh giá thực trạng tình hình các yếu tố của môi trường thu hút FDI của tỉnh Bình Dương; thăm dò các đề xuất của người được phỏng vấn về giải pháp để tiếp tục hoàn thiện môi trường thu hút FDI của tỉnh.
- Đối tưởng phỏng vấn:10 trường hợp trong đó có 06 doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương (gồm 02 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp nhẹ; 02 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp năng; 02 doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm); 04 cán bộ quản lý của Cơ quan nhà nước có liên quan (UBND tỉnh, Sở Kế hoạch & Đầu tư, Sở Công thương, Ban Quản lý Các KCN tỉnh).
- Công cụ khảo sát: Hướng dẫn phỏng vấn sâu.
- Phương pháp thu thập: Các đối tượng được khảo sát qua 03 giai đoạn: (1) điều tra thăm dò nhằm đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu và nhận diện các yếu tố có tác động đến thu hút FDI ở Bình Dương; (2) phỏng vấn chính thức nhằm thu thập các thông tin chính thức để nghiên cứu; (3) phỏng vấn bổ sung nhằm hoàn thiện những thông tin chưa đầy đủ, giải thích các kết quả mới từ nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý: Dữ liệu phỏng vấn được gở băng và hiệu chỉnh, sau đó tiến hành phân tích dữ liệu trên excel theo từng từ khóa (phạm trù) khác nhau. Thực hiện đánh giá tần số xuất hiện của từng phạm trù, so sánh các trường hợp, kết hợp lý luận để rút ra các đánh giá khái quát cần thiết và nêu ra các phát biểu điển hình về môi trường FDI trên địa bàn tỉnh bình dương.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút FDI.
- Phân tích thực trạng môi trường thu hút vốn FDI và đánh giá kết quả thu hút vốn FDI ở Bình Dương thời gian từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện môi trường thu hút vốn FDI ở Bình Dương trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về môi trường thu hút FDI.
- Chương II: Thực trạng môi trường thu hút FDI tại Bình Dương.
- Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MÔI TRƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư
Vũ Chí Lộc (1997) cho rằng hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế đầu tư thì: đầu tư là sự bỏ ra, sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại. Nguồn lực này có thể là tiền, sức lao động, trí tuệ… nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.Vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định.Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động (PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt & TS. Từ Quang Phương, 2007).
Các khái niệm trên đây cho thấy đầu tư là hoạt động nhằm sinh lời khi đầu tư vốn kinh doanh trong mội thời kỳ nhất định.
1.1.1.2. Phân loại đầu tư
Hoạt động đầu tư có thể được phân loại một cách tương đối: theo lĩnh vực hoạt động, theo mức độ đầu tư, theo thời gian hoạt động và theo tính chất quản lý (Nguyễn Thị Huyền Trang, 2013).
* Theo lĩnh vực hoạt động, bao gồm:
- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…): đây là điều kiện để tạo tiền đề phát triển sản xuất kinh doanh (tạo ra sự ra đời các xí nghiệp mới, quy mô sản xuất được mở rộng)
- Đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh (đầu tư thêm dây chuyền công nghệ để tăng cường năng lực sản xuất, đầu tư bổ sung trang thiết bị hiện đại…): sẽ tạo năng lực mới, sản xuất phát triển có thêm tiềm lực kinh tế để giúp phát triển trở lại cho cơ sở hạ tầng.
- Đầu tư phát triển các hoạt động lĩnh vực văn hóa – xã hội – môi trường (đầu tư các dự án trùng tu các di sản văn hóa, lịch sử…). Đầu tư vào văn hóa xã hội sẽ nâng cao học vấn, dân trí, phát triển khoa học kỹ thuật giúp phát triển trở lại cho sản xuất.
* Phân loại theo mức độ đầu tư, bao gồm:
- Đầu tư cải tạo mở rộng: nhằm tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cao hơn trên cơ sở đầu tư cũ đã có (như mở rộng thêm mặt bằng mua sắm bổ sung thêm máy móc thiết bị, cải tiến dây chuyền công nghệ…). Kết quả của đầu tư này là nhằm nâng cao thêm năng lực và hiệu quả sản xuất. Trường hợp này còn gọi là đầu tư chiều sâu.
- Đầu tư xây dựng mới: được tiến hành với quy mô lớn, toàn diện. Trong đó việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được quan tâm và sử dụng tối đa.
So sánh 2 dạng đầu tư này: đầu tư xây dựng mới lớn hơn về quy mô, dài hơn về thời gian thực hiện; kỹ thuật công nghệ mới được sử dụng triệt để và vốn đầu tư thường rất lớn. (Nguyễn Thị Huyền Trang, 2013).
* Phân loại theo thời hạn hoạt động, bao gồm:
- Đầu tư ngắn hạn: là những đầu tư nhằm vào các yếu tố và mục tiêu trước mắt, thời gian hoạt động và phát huy tác dụng thường ngắn, trong khoảng từ 2 đến dưới 5 năm. Trong đầu tư ngắn hạn, huy động kỹ thuật và vật chất không lớn. Tuy nhiên, đòi hỏi của đầu tư ngắn hạn phải đảm bảo các yếu tố để thu hồi vốn nhanh, phải hoàn thành công trình sớm và sớm đưa vào khai thác, thị trường sẵn sàng và sản phẩm được tiêu thụ nhanh nhạy.
- Đầu tư trung hạn và dài hạn: là những đầu tư đòi hỏi nhiều về vốn đầu tư và lâu dài về thời gian phát huy tác dụng, thường trên 5-10-15-20 năm hoặc lâu hơn.
* Phân loại theo tính chất quản lý, bao gồm:
- Đầu tư gián tiếp: chủ đầu tư chỉ đóng vai trò góp vốn mà không tham gia quản lý, điều hành. Dạng này thường thấy ở lĩnh vực đầu tư tài chính, như: đầu tư mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, hoặc mua trái phiếu do nhà nước hoặc doanh nghiệp phát hành. Thực chất trong đầu tư gián tiếp, người bỏ vốn (nhà đầu tư) và nhà quản trị sử dụng vốn là khác chủ thể.
- Đầu tư trực tiếp: là đầu tư mà trong đó chủ đầu tư vừa bỏ vốn, vừa trực tiếp tham gia quản lý, điều hành. Thực chất trong đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn và nhà quản lý sử dụng vốn là một chủ thể.
+ Do người bỏ vốn và nhà quản trị sử dụng vốn là một chủ thể, nên chính chủ thể này hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư của chính mình.
+ Kết quả đầu tư có thể lãi hoặc lỗ. Có nghĩa là, khi đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn, đồng thời là nhà quản trị sử dụng vốn, chấp nhận nguyên tắc “lời ăn – lỗ chịu”.
+ Trong đầu tư trực tiếp có đầu tư trực tiếp trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1.3. Vai trò của đầu tư
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Đại hội XII của Đảng chính là Đại hội có nhiều nhận thức mới đối với các thành phần kinh tế, đó là khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế đối với kinh tế tư nhân; quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; và quan tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh tế, cả lí thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
* Tác động của đầu tư đến kinh tế vi mô (doanh nghiệp)
Căn cứ theo dòng đời của doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định đến cả sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư có thể có tác dụng mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng, phát triển sản phẩm mới, làm tăng khả năng thu lợi cho sản phẩm hiện có tùy theo đối tượng đầu tư.
Đầu tư tài sản cố định, bao gồm: đầu tư xây lắp; đầu tư mua sắm máy móc thiết bị; đầu tư tài sản cố định khác có tác dụng nâng cao công suất sản xuất,mở rộng sản xuất(theo chiều rộng) hoặc đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất hay
chất lượng sản phẩm(theo chiều sâu). Đầu tư tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất.
Đầu tư tài sản lưu động, bao gồm các chi phí tài chính để:mua nguyên,nhiên vật liệu,vật rẽ tiền mau hỏng, trả lương cho người lao động,chi phí sản xuất chung,trả lãi vay, chi phí quản lý doanh nghiệp.Đây là khoản đầu tư có tác dụng nhiều mặt như: nâng cao năng suất,chất lượng và mẩu mã, sản phẩm;tiết kiệm chi phí giảm giá thành sản phẩm; mở rộng thị trường; nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đầu tư tài sản tài chính bao gồm mua cổ phiếu, trái phiếu, hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác có tác dụng sử dụng vốn có hiệu quả,nâng cao tỉ suất lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngày càng có tỷ trọng cao và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp.
Như vậy, có thể nói hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động có ý nghĩa chiến lược đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên đầu tư lại là một việc không dễ dàng và rất nhạy cảm đối với quản lý doanh nghiệp.Những sai lầm trong việc dự toán vốn đầu tư có thể dẫn đến tình trạng lãng phí vốn lớn, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi các quyết định đầu tư phải được tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng.
* Tác động của đầu tư đến kinh tế vĩ mô
- Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu: Về mặt cầu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế, theo 2 mặt: Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung
của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
- Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế: chính đầu tư sẽ quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Còn về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Đặc biệt, FDI là kênh rất quan trọng để nước nhận đầu tư tiếp thu được công nghệ tiên tiến vì FDI mang theo trong lòng nó kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
- Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế: Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội mà còn tạo ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế ở những nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền kinh tế phát triển. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm
Theo quan điểm của V.I. Lênin, đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư của một nước (ở nước chủ đầu tư) có được tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ phân biệt FDI với công cụ quản lý tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, nhà đầu tư được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay là các “chi nhánh công ty”. Theo Ủy ban thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) năm 1996 trong Báo cáo đầu tư thế giới đã khẳng định: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác”.
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 1, 2 và 5, điều 3 Luật đầu tư năm 2005 định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”…..“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”… “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó. Xét về bản chất, FDI khác với đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI); đồng thời FDI là đầu tư thuộc kênh tư nhân, khác hẳn với đầu tư tài trợ (ODA) của Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế.
Qua các định nghĩa trên, cho phép đi đến một khái niệm phù hợp về FDI: là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập và kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận. Trong hình thức FDI người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể. Họ có quyền tự quyết về đầu tư, tự quyết trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động đầu tư của chính mình.
So với đầu tư gián tiếp nước ngoài, thì đầu tư FDI có nhiều ưu thế hơn và là hình thức sử dụng hiệu quả nhất hiện nay, và đem lại lợi ích cho nước đầu tư và nước nhận đầu tư trong việc phát triển kinh tế mạnh, thực hiện mục tiêu đề ra.