và tính giá thành theo biến phí. Trong khi đó, thực trạng các DN CBTACN chưa quan tâm nhiều đến cách phân loại chi phí mức độ hoạt động và tính giá thành theo biến phí nên nhà quản trị chưa có cơ sở để thực hiện phân tích thông tin chi phí cho việc ra quyết định trong các trường hợp đặc biệt. Việc lựa chọn ra quyết định thường dựa vào thông tin KTTC và kinh nghiệm ra quyết định của bản thân nhà quản trị.
2.3.5. Đánh giá thực trạng mô hình kế toán chi phí
Các DN CBTACN thực hiện mô hình kế toán chi phí kết hợp là mô hình mà mỗi nhân viên kế toán đồng thời thực hiện công việc KTTC và KTQT, không tổ chức bộ máy kế toán quản trị riêng. Các DN CBTACN sử dụng mô hình này đã tận dụng được bộ máy nhân sự của KTTC nên tiết kiệm được chi phí, bộ máy gọn nhẹ. Tuy nhiên, mô hình này dẫn đến công việc KTQT không chuyên môn hóa, việc cung cấp thông tin không kịp thời. Đặc biệt là trong các DN CBTACN có quy mô lớn, sản xuất với nhiều loại sản phẩm nên khối lượng công việc của kế toán nhiều, đặc biệt là công việc của kế toán chi phí và giá thành sản phẩm. Vì vậy, tác giả đánh giá việc sử dụng mô hình hỗn hợp này chỉ phù hợp cho các DN nhỏ có khối lượng công việc ít, đối với các DN lớn thì không phù hợp để có thể cung cấp thông tin nhanh chóng và phù hợp cho quá trình quản trị chi phí của DN. Các DN CBTACN chưa xây dựng được mô hình kế toán chi phí phục vụ tăng cường quản trị chi phí một cách hiệu quả, mặc dù các DN CBTACN bước đầu có quan tâm xây dựng hệ thống KTQT. Tuy nhiên, mức độ thông tin kế toán chi phí cung cấp cho nhà quản trị ra quyết định nhằm tăng cường quản trị chi phí còn thấp và chưa thực sự phản ánh đúng tầm quan trọng của kế toán chi phí trong việc tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN.
Nguyên nhân của việc lựa chọn mô hình kết hợp là do mô hình này tiết kiệm chi phí và nhân sự. Do các DN CBTACN có tính chất sở hữu tư nhân nên các DN luôn muốn tiết kiệm chi phí, đồng thời do chưa nhận thức được tầm quan trọng của thông tin kế toán chi phí, đặc biệt là KTQT chi phí để tăng cường quản trị chi phí nên nhu cầu đòi hỏi cung cấp thông tin của nhà quản trị không cao. Thực trạng trên
cũng xuất phát từ số lượng và trình độ của nhân viên kế toán còn hạn chế, công việc kế toán phục vụ KTTC lớn, chiếm nhiều thời gian và công sức của kế toán, chính vì vậy trong các DN CBTACN hiện nay đang tổ chức mô hình kế toán chi phí là mô hình kết hợp nhưng với phần lớn công việc kế toán là dành cho KTTC phục vụ việc lập báo cáo tài chính ra bên ngoài. Hệ thống kế toán chi phí của KTTC có ít vai trò trong việc cung cấp thông tin phục vụ tăng cường quản trị chi phí vì đó chỉ là những thông tin phản ánh khái quát toàn bộ hoạt động của DN. Còn thông tin KTQT chi phí chưa thực sự cung cấp được các thông tin cần thiết cho việc quản trị chi phí trong các DN CBTACN.
Như vậy, qua thực tế tìm hiểu, nhiều DN CBTACN tập trung cung cấp thông tin cho KTTC, là thông tin cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là các DN có quy mô nhỏ. Công việc của kế toán chỉ tập trung vào việc cung cấp thông tin cho hoạt động lập sổ sách và báo cáo tài chính và báo cáo thuế. Một số DN đã bước đầu quan tâm đến công tác KTQT chi phí nhằm cung cấp thông tin cho việc quản trị chi phí thông qua việc thực hiện hoạt động lập định mức, lập dự toán, xác định lợi nhuận gộp của từng mặt hàng, so sánh đánh giá thực tế với kế hoạch hoặc kỳ trước, tính toán các chỉ tiêu sinh lời…. Tuy nhiên, số lượng báo cáo phân tích chi phí, số lượng chỉ tiêu phân tích chưa nhiều và chưa đáp ứng nhu cầu thông tin cho hoạt động quản lý. Nếu xét theo quy mô, các DN CBTACN có quy mô lớn đã áp dụng các phương pháp KTQT chi phí vào thực tế công tác kế toán để phục vụ tăng cường quản trị chi phí nhiều hơn các DN có quy mô vừa và nhỏ. Đồng thời, thông qua phỏng vấn sâu, tác giả đánh giá về tính chủ động của các kế toán viên trong việc cung cấp thông tin KTQT nói chung và thông tin chi phí nói riêng, thì kế toán vẫn thụ động trong việc cung cấp thông tin cho nhà quản trị, thông tin chỉ được kế toán cung cấp khi nhà quản lý có yêu cầu, kế toán chưa chủ động phân loại, phân tích, lập báo cáo cung cấp thông tin cho nhà quản trị. Kế toán cần hướng dẫn, giải thích thông tin kế toán cho nhà quản trị hiểu và đánh giá đúng các chi phí của DN theo các loại quyết định cụ thể của DN.
Tóm lại, nhu cầu cung cấp thông tin kế toán chi phí cho các nhà quản trị trong các DN CBTACN là rất lớn trong tình hình giá nguyên liệu tăng cao, chi phí sản xuất không ngừng tăng và tình hình tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Luận án đã sử dụng các phương pháp khoa học để đánh giá thực trạng kế toán chi phí trong các DN CBTACN với việc tăng cường quản trị chi phí. Luận án đưa ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng kế toán chi phí trong các DN CBTACN về phân loại chi phí, về lập định mức và dự toán chi phí, về xác định chi phí cho đối tượng chịu phí và phân tích thông tin chi phí phục vụ quá trình ra quyết định sản xuất kinh doanh. Luận án cũng đánh giá về thực trạng mô hình kế toán chi phí trong các DN CBTACN. Từ đó, luận án đã đưa ra kết luận về thực trạng kế toán chi phí với việc tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN còn nhiều hạn chế, chưa cung cấp đầy đủ và hệ thống thông tin chi phí cần thiết cho hoạt động quản trị chi phí trong các DN CBTACN. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí để tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN. Những đánh giá và kết luận về thực trạng kế toán chi phí trong các DN CBTACN sẽ là cơ sở để luận án đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện kế toán chi phí trong các DN CBTACN ở chương 3, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi phí, đem lại lợi nhuận cao hơn cho DN CBTACN.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Phân Tích Chi Phí Với Việc Ra Các Quyết Định Quản Trị Chi Phí
- Thực Trạng Phân Tích Thông Tin Thích Hợp Cho Quá Trình Ra Quyết Định Và Dự Báo Tương Lai
- Đánh Giá Thực Trạng Xác Định Chi Phí Trong Các Dn Cbtacn
- Phân Loại Chi Phí Theo Cách Ứng Xử Của Chi Phí Trong Các Dn Cbtacn
- Hoàn Thiện Xây Dựng Định Mức Và Lập Dự Toán Chi Phí
- Xác Định Giá Phí Cho Đối Tượng Chịu Phí
Xem toàn bộ 361 trang tài liệu này.
Chương 3: HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHĂN NUÔI
3.1. Chiến lược phát triển ngành CBTACN ở Việt Nam
Ngành CBTACN là một ngành sản xuất công nghiệp mới phát triển ở Việt Nam kể từ khi giống vật nuôi ngoại nhập bước đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1960 để phục vụ cho ngành chăn nuôi. Ngành CBTACN ở Việt Nam là ngành công nghiệp gắn liền với ngành chăn nuôi của Việt Nam, có ảnh hưởng lớn đến số lượng, chất lượng và quy mô của ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi của nước ta còn nhỏ lẻ, hình thức chăn nuôi trang trại mới phát triển, số lượng trang trại có tăng dần theo thời gian nhưng vẫn còn chậm và nhỏ, do đó ảnh hưởng đến khối lượng thức ăn công nghiệp tiêu thụ, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành CBTACN. Kể từ những năm 90, ngành công nghiệp CBTACN c ủ a Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi. Ngành chăn nuôi giữ vai trò ngày càng tăng trong tổng GDP của ngành nông nghiệp với tỷ lệ đóng góp giao động từ 22,6% đến 25,5% trong giai đoạn 2001-2007 và dự kiến tăng lên 25% - 26% trong năm 2008 (Cục chăn nuôi, 2008). Tuy nhiên, ngành CBTACN của Việt Nam mới chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu thức ăn chăn nuôi trong nước. Phần còn lại là nhập khẩu và các hộ chăn nuôi tự cung cấp. Đối với nguyên liệu, ngành CBTACN gặp nhiều vấn đề khó khăn đối với nguyên liệu đầu vào do nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của Việt Nam phụ thuộc vào nhập khẩu. Không chỉ nhập khẩu thức ăn tinh, mà cả những thức ăn thô như ngô, đậu tương, bột gạo, bột cá…nước ta cũng phải nhập khẩu. Vì vậy, thức ăn chăn nuôi còn chịu ảnh hưởng bởi chính sách nhập khẩu, tỷ giá, thuế nhập khẩu và giá cả thị trường thế giới, do đó ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm, khiến giá thành sản phẩm TACN trong nước luôn cao hơn khu vực 10-15%.
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu TACN
Theo quyết định số 10/2008/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020” đã xác định mục tiêu đến năm 2020 ngành chăn nuôi cơ bản chuyển sang sản xuất phương thức trang trại, công nghiệp, đáp ứng phần lớn nhu cầu thực phẩm đảm bảo chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu. Chiến lược cũng đưa ra định hướng phát triển đến năm 2020 của ngành CBTACN là phát triển mạnh ngành công nghiệp CBTACN trên cơ sở mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp để trồng cỏ thâm canh và các loại cây nguyên liệu thức ăn chăn nuôi bằng các giống năng suất cao, giàu đạm. Nâng cao năng lực chế biến nguyên liệu trong nước và tận dụng triệt để nguồn phụ phẩm nông, công nghiệp làm thức ăn chăn nuôi. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp: tăng bình quân 7,8%/năm, đạt khoảng 19 triệu tấn [7,tr3]. Như vậy, ngành chế biến thức ăn chăn nuôi đã nhận được sự quan tâm của Nhà nước, tuy nhiên cần xây dựng các đề án cụ thế về phát triển thức ăn chăn nuôi, khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, công nghiệp và giết mổ, bảo quản, chế biến gia súc, gia cầm công nghiệp để đảm bảo chiến lược đi vào thực hiện có hiệu quả để ngành chăn nuôi và ngành chế biến thức ăn chăn nuôi cùng phát triển ổn định, tương xứng với vị trí của ngành trong nền kinh tế.
3.2. Định hướng hoàn thiện kế toán chi phí với việc tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN
Mục đích cuối cùng của hoàn thiện kế toán chi phí là nhằm cung cấp thông
tin hữu ích cho quá trình ra quyết định và kết quả cuối cùng là đem lại nhiều lợi ích hơn cho DN, đạt lợi nhuận cao hơn cho DN. Vì vậy, việc hoàn thiện kế toán chi phí với việc tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN phải gắn với mục tiêu tiết kiệm, hiệu quả. Để thực hiện được điều đó, việc hoàn thiện phải đảm bảo yêu cầu định hướng sau:
Thứ nhất, việc hoàn thiện phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN CBTACN. Đặc điểm tổ chức quản lý, đặc điểm tổ chức sản xuất và đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của các DN CBTACN có ảnh hưởng đến công tác kế toán nói chung, công tác kế toán chi phí nói riêng. Vì vậy, việc hoàn thiện kế toán chi phí phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm hoạt động của các DN CBTACN.
Thứ hai, việc hoàn thiện phải đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN. Thông tin KTTC là thông tin tổng hợp về toàn bộ hoạt động của DN trong kỳ, nhằm cung cấp thông tin cho đối tượng sử dụng thông tin là đối tượng bên ngoài DN. Còn thông tin KTQT nhằm phục vụ cho bản thân DN, nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường quản lý và ra quyết định bên trong DN. Thông tin chi phí có rất nhiều nguồn phát sinh, với nhiều loại thông tin khác nhau. Tuy nhiên, kế toán phải lựa chọn, phân loại, đánh giá, phân tích và trình bày thông tin chi phí để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin phục vụ tăng cường quản trị chi phí của các DN CBTACN.
Thứ ba, việc hoàn thiện phải đáp ứng mục tiêu hiệu quả và tiết kiệm. Hoàn thiện kế toán chi phí phải đảm bảo tận dụng được thông tin của hệ thống KTTC. Hệ thống thông tin KTTC là hệ thống bắt buộc phải có nhằm thực hiện việc cung cấp thông tin ra bên ngoài theo chế độ quy định. Thông tin của KTQT được cung cấp từ nhiều nguồn thông tin trong đó từ phần lớn có cùng nguồn gốc với thông tin của KTTC. Do đó, khi hoàn thiện kế toán chi phí với việc tăng cường quản trị chi phí trong các DN CBTACN thì cần tận dụng nguồn thông tin, số liệu và nhân lực sẵn có của KTTC. Cần tổ chức hệ thống thu nhận, hệ thống xử lý thông tin, bao gồm con người, chứng từ, tài khoản, sổ sách kế toán vừa đảm bảo cung cấp thông tin cho
KTTC vừa cung cấp thông tin cho KTQT nhằm đảm bảo mục tiêu vừa hiệu quả vừa tiết kiệm. Ngoài ra, những thông tin mà KTTC không thể cung cấp thì KTQT sẽ tổ chức thu nhận, xử lý và phân tích riêng nhưng phải cân đối được giữa lợi ích thu về và chi phí bỏ ra để thu nhận, xử lý, phân tích thông tin đó.
3.3. Giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí trong các DN CBTACN
Thông qua nghiên cứu lý luận kế toán chi phí và thực tế kế toán chi phí trong các DN CBTACN, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí trong các DN này như sau:
3.3.1. Hoàn thiện phân loại chi phí
Các DN CBTACN cần nhận diện được chi phí theo các cách phân loại chi phí nhằm đáp ứng yêu cầu lập kế hoạch, kiểm soát chi phí và ra quyết định kinh doanh. Chi phí trong DN CBTACN bao gồm rất nhiều khoản mục chi phí và yếu tố chi phí. Việc nhận thức về chi phí sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin chi phí cho việc ra quyết định.
* Về phân loại chi phí theo mục đích, công dụng
Cách phân loại chi phí này được thực hiện tốt trong các DN CBTACN. Tuy nhiên, một số khoản mục chi phí chưa được đưa vào đúng khoản mục chi phí theo quy định và mức độ chi phí cần được xác định cho phù hợp với thực tế sử dụng. Hàng tồn kho như nguyên vật liệu, nhiên liệu, bao bì,… chỉ được tính vào chi phí trong kỳ căn cứ vào mức độ sử dụng thực tế chứ không được căn cứ vào mức mua vào trong kỳ. Khi xuất bao bì, than… để sử dụng, DN CBTACN nên sử dụng phiếu xuất kho để phản ánh giá trị nguyên vật liệu vào chi phí trong kỳ, phần nguyên vật liệu chưa sử dụng là hàng tồn kho cuối kỳ.
Ngoài ra, về phạm vi phản ánh chi phí của các tài khoản kế toán, các khoản chi phí cần được đưa vào đúng tài khoản tương ứng, các chi phí được phản ánh vào TK 621 “CP NVL TT” là giá trị nguyên vật liệu, bán thành phẩm dùng trực tiếp sản xuất sản phẩm, cấu tạo nên giá trị thực thể của sản phẩm, phản ánh vào TK 622 “CP NCTT” là chi phí về tiền lương, tiền công và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, những người trực tiếp tham gia vào sản xuất sản
phẩm từ khâu đưa nguyên vật liệu vào đến khâu hoàn thành thành phẩm đóng bao để sẵn sàng tiêu thụ hoặc nhập kho, TK 627 “CP SXC” chỉ được phản ánh những khoản chi phí sản xuất còn lại nhưng phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất, TK 641 “CP BH” là các khoản chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động tiêu thụ thành phẩm như chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa bảo hành sản phẩm, công tác phí của bộ phận bán hàng… Và TK 642 “CP QLDN” phản ánh toàn bộ chi phí quản lý hành chính chung liên quan đến toàn DN.
Theo tác giả, cần thiết phải thực hiện giải pháp này nhằm hai mục tiêu. Thứ nhất, phản ánh đúng giá trị hàng tồn kho hiện có của DN, phản ánh chính xác các khoản chi phí từ đó phản ánh chính xác giá thành, giá vốn và lợi nhuận của DN. Thứ hai, cách làm như vậy sẽ đảm bảo công tác quản lý nguyên vật liệu được chặt chẽ, giúp tiết kiệm chi phí.
* Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí có vai trò quan trọng đối với hoạt động cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định. Thông tin chi phí cố định và biến đổi được sử dụng trong nhiều quyết định ngắn hạn của DN, đồng thời được sử dụng cho quá trình lập định mức và dự toán chi phí, dự toán ngân sách. Vì vậy, chi phí trong các DN CBTACN cần được phân loại theo cách ứng xử của chi phí. Chi phí trong DN CBTACN nếu chia theo khoản mục chi phí bao gồm chi phí sản xuất (CP NVLTT, CP NCTT, CP SXC) và chi phí ngoài sản xuất (CP BH và CP QLDN). Trong từng khoản mục chi phí có thể có chi phí cố định, chi phí biến đổi và chi phí hỗn hợp. (Bảng 3.1)