Đặc Điểm Hoạt Động Cho Vay Dự Án Của Công Ty Tài Chính

tư bao gồm cả nguồn vốn của tập đoàn kinh doanh nếu công ty tài chính đó thuộc tập đoàn kinh doanh giao để đầu tư vào những công trình, dự án của tập đoàn và các đơn vị thành viên.

Ngoài ra đối với các Công ty tài chính thuộc tập đoàn kinh doanh còn một nguồn huy động lớn là vay từ tập đoàn kinh doanh. Dựa vào uy tín và lợi thế của mình, các tập đoàn kinh doanh đứng ra phát hành trái phiếu để huy động vốn rồi chuyển cho các công ty tài chính vay. Mặt khác khi tập đoàn kinh doanh đứng ra phát hành trái phiếu thì không bị ràng buộc về dự trữ, lãi suất, số lượng do ngân hàng nhà nước quy định do tập đoàn không phải là một tổ chức tín dụng.

Hoạt động tín dụng:

Sau khi huy động được vốn, để bù đắp chi phí huy động vốn và có lợi nhuận thì Công ty tài chính phải tìm cách sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này. Hoạt động tín dụng của công ty tài chính cũng như các ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế, giúp dịch chuyển vốn từ nơi thừa vốn (nguồn vốn huy động được) đến nơi thiếu vốn (hoạt động tín dụng của ngân hàng).

Hoạt động tín dụng ở đây được hiểu là tất cả các hoạt động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và các hình thức tín dụng khác theo đúng pháp luật. Trong tất cả các hoạt động đó, hoạt động cho vay chiếm vai trò quan trọng nhất, đem lại nguồn doanh thu lớn nhất cho các công ty tài chính. Do vậy, hiện nay thông thường khi nhắc đến tín dụng của các công ty tài chính vẫn được hiểu nhầm là hoạt động cho vay của các công ty này.

Đối với cho vay công ty tài chính được cho vay dưới hình thức:

- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

- Cho vay theo ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, các nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và hợp đồng ủy thác.

- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay trả góp để mua các vật dụng là các hàng hoá lâu bền như xe hơi, bất động sản,.. và cho doanh nghiệp vay để kinh doanh.

Ở Việt Nam, hoạt động cho vay của công ty tài chính còn rất hạn hẹp, chủ yếu là công ty tài chính tiến hành cho doanh nghiệp vay để kinh doanh theo hình thức cho vay dự án trung hoặc dài hạn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Đối với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác:

Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác.

Hoàn thiện hoạt động cho vay dự án của công ty tài chính dầu khí (PVFC) - 3

Đối với hoạt động bảo lãnh:

Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của công ty tài chính (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho công ty tài chính số tiền đã được trả thay.

Các hoạt động khác:.

- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng

khác.


- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng.

- Tham gia thị trường tiền tệ.

- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng.

- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá

cho các doanh nghiệp.

- Được quyền nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.‌

- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng.

- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác.

1.2.Hoạt động cho vay dự án của công ty tài chính

1.2.1.Khái quát về cho vay dự án

+ Khái niệm chung về dự án:

Đầu tư là một hoạt động quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn với hy vọng đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay, nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án.

Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội, nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Dự án là căn cứ quan trọng để bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.

Trong “Quy chế đầu tư và xây dựng” theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nêu khái niệm về dự án như sau: “Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định”.

Với các quan điểm khác nhau, có thể có các khái niệm khác nhau về dự án. Song, một cách tổng quát nhất, dự án được hiểu là một tập hợp các hoạt

động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra (mục tiêu nhất định) với nguồn lực và thời gian xác định.

+ Các nguồn tài trợ cho dự án:

Các phương thức tài trợ cho dự án thông thường bao gồm tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, tài trợ bằng nợ, tài trợ bằng leasing và tài trợ kết hợp (được tiến hành bằng cách kết hợp giữa các phương thức tài trợ nêu ở trên). Mỗi phương thức tài trợ đều có những đặc trưng riêng cũng như những lợi thế, bất lợi cho các chủ đầu tư. Hơn nữa, quá trình xác định dòng tiền và lựa chọn lãi suất chiết khấu không thể được tiến hành một cách biệt lập với phân tích bản chất của phương thức tài trợ. Hay nói cách khác, phương thức tài trợ sẽ chi phối việc xác định dòng tiền phù hợp cũng như lựa chọn lãi suất chiết khấu hợp lý cho dự án. Rõ ràng các phương thức tài trợ cho doanh nghiệp nói chung cũng không khác biệt so với tài trợ cho dự án, bởi vì dự án mà chúng ta nghiên cứu ở đây là dự án thuộc doanh nghiệp và do doanh nghiệp tiến hành.

+ Cho vay dự án:

Cho vay dự án của công ty tài chính là việc một công ty tài chính giao cho khách hàng một khoản tiền trực tiếp hoặc thông qua một tổ chức tài chính trung gian khác để cho vay toàn bộ hay một phần dự án được đề nghị.

Giống như cho vay thông thường, cho vay dự án của công ty tài chính cần xem xét cho vay đối với những dự án thỏa mãn đồng thời các điều kiện, đó là đúng đối tượng, ngành nghề, thuộc danh mục và nằm trong hạn mức tín dụng của công ty, bảo đảm tỷ suất hoàn vốn nội bộ của dự án đạt tối thiểu là 10%, bảo đảm việc quản lý dòng tiền dự án một cách chặt chẽ (ngoại trừ trường hợp cho vay đồng tài trợ mà tổ chức tín dụng đầu mối có qui định khác), thời hạn cho vay của dự án phụ thuộc vào dòng tiền của từng dự án.

Các khoản cho vay dự án có thể được chấp nhận dựa trên cơ sở bảo lãnh theo đó người cho vay có thể khôi phục vốn từ những tổ chức thực hiện

bảo lãnh nếu dự án không trả được nợ đúng như kế hoạch đã định. Tuy nhiên khoản cho vay cũng có thể được cung cấp không dựa trên cơ sở bảo lãnh, không có người đứng ra đảm bảo, dự án tồn tại hoặc sụp đổ dựa trên giá trị của chính nó. Trong trường hợp này, công ty phải đối mặt với những rủi ro rất lớn và họ sẽ yêu cầu một mức lãi suất cao hơn những khoản cho vay có đảm bảo. Đối với nhiều khoản cho vay như vậy, công ty tài chính thường đòi hỏi các tổ chức tài trợ dự án phải thế chấp tài sản cho tới khi dự án hoàn tất.

Cho vay dự án có một vai trò hết sức quan trọng. Nó không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho tổ chức cho vay trong một thời gian đủ dài mà thông qua việc cho vay dự án, các dự án có đủ nguồn vốn để thực hiện, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư, tạo công ăn việc làm và sự ổn định nền kinh tế đất nước.

1.2.2.Đặc điểm hoạt động cho vay dự án của công ty tài chính

Cho vay dự án là một hoạt động cho vay chủ chốt của các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính, cho vay dự án cũng có ba đặc điểm lớn giống như nghiệp vụ cho vay thông thường của các tổ chức tín dụng, bao gồm:

Một là, có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng. Người sở hữu vốn có thể là Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài. Họ là những người có nguồn vốn chưa sử dụng và có nhu cầu cho vay vốn để lấy lại một phần lợi tức do nguồn vốn ấy mang lại. Ngược lại, bên vay là những tổ chức, cá nhân có những dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu quả, có khả năng sinh lời cao, tuy nhiên lại thiếu vốn để thực hiện mục đích đó. Việc cho vay ở đây được hiểu là cho vay của các tổ chức tài chính trên thị trường. Họ chính là những trung gian tài chính đứng ra làm nhiệm vụ huy động các khoản tiền tiết kiệm trong nền kinh tế, tập hợp lại và với kinh nghiệm, chuyên môn của mình để đứng ra làm nhiệm vụ cho vay đến các tổ chức và cá nhân có nhu cầu. Thu nhập của công ty tài chính là khoản chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.

Hai là, sự chuyển nhượng trong hoạt động cho vay là có thời hạn. Bất cứ các khoản vay nào cũng có thời hạn nhất định phải hoàn trả. Thời hạn này dài hay ngắn là phụ thuộc vào nhu cầu của người vay và chính sách cho vay, khả năng cho vay của bản thân tổ chức tài chính. Các khoản vay có thể là ngắn hạn (dưới 1 năm), trung hạn (từ 1 đến 5 năm) và dài hạn (trên 5 năm). Việc xác định thời hạn của vốn vay giúp tổ chức tài chính hoạch định được chính sách cho vay vốn của mình, từ sự dịch chuyển của luồng tiền cho vay, lãi suất và các biện pháp thu hồi nợ đối với người vay.

Ba là, sự chuyển nhượng có kèm theo chi phí. Chi phí cho các khoản vay đó chính là lãi suất cho vay. Bất cứ khoản cho vay nào của công ty tài chính cũng đều phải có một lãi suất cho vay nhất định. Loại lãi suất này không cố định, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: đối tượng khách hàng, giá trị khoản vay, thời hạn của khoản vay, khả năng trả nợ của người vay cũng như những biến động của nền kinh tế. Tuy nhiên, mức lãi suất này luôn luôn phải bảo đảm lớn hơn lãi suất của các tổ chức tín dụng phải trả từ việc huy động vốn và đủ bù đắp chi phí hoạt động kinh doanh trong việc cho vay.

Trên đây là ba đặc điểm cơ bản của cho vay dự án trên giác độ một khoản cho vay thông thường. Tuy nhiên do những đặc điểm khác biệt của việc đầu tư dự án, cho vay dự án còn có những đặc điểm riêng:

Thứ nhất, lượng vốn ban đầu để đầu tư cho dự án là rất lớn, do đó chủ đầu tư dự án phải huy động từ nhiều nguồn, trong đó nguồn tài trợ từ cho vay dự án của các công ty tài chính là rất quan trọng. Tuy nhiên các công ty tài chính lại không tài trợ toàn bộ vốn đầu tư mà yêu cầu chủ đầu tư phải có lượng vốn tự có với một tỷ lệ nhất định, và đồng thời căn cứ trên các thông tin dữ liệu về dự án để xác định mức cho vay hợp lý đối với từng dự án cụ thể. Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm công nghệ, qui trình sản xuất, phân tích tài chính...trong đó phân

tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của công ty. Khối lượng vốn mà công ty tài trợ cho dự án được xác định theo nguyên tắc sau:

Số tiền cho vay = Tổng vốn đầu tư – vốn tự có – các nguồn huy động khác

Thứ hai, thời hạn cho vay của dự án thường kéo dài nhiều năm, chủ yếu là các khoản cho vay trung và dài hạn. Do đặc tính của những dự án này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, được thực hiện trong khoảng thời gian dài nên tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, và thực hiện phân tích trước khi cho vay cũng như quản lý vốn vay chặt chẽ hơn.

Thời hạn cho vay = Thời gian xây dựng cơ bản + Thời gian trả nợ.

Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của một công ty tài chính để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù đắp được các chi phí như chi phí tiền gửi, chi phí quản lý, chi phí kinh doanh, chi phí rủi ro đầu tư, chi phí thuế. Khi nền kinh tế càng phát triển, lượng vốn mà công ty tài chính cho các doanh nghiệp cũng càng tăng và các loại hình cho vay cũng trở lên vô cùng đa dạng. Nguyên tắc cho vay gồm hai nguyên tắc cơ bản:

i.Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi:

Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì mỗi lần cho vay công ty tài chính phải xác định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến hạn trả nợ, khách hàng phải trả nợ cho công ty.

ii. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích:

Đây là phương châm hoạt động của công ty tài chính. Khi vốn vay không được sử dụng đúng mục đích như trong “Giấy đề nghị vay vốn” thì sẽ rất dễ dẫn đến rủi ro cho công ty. Khi thực hiện nguyên tắc này, các công ty tài chính yêu cầu khách hàng phải sử dụng vốn đúng với mục đích ghi trong “ Giấy đề nghị vay vốn” bởi vì mục đích đó đã được công ty thẩm định. Khi công ty phát hiện việc khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích thì công ty có quyền thu hồi nợ trước hạn.

1.2.3.Các hình thức cho vay dự án

Cho vay dự án là một loại hình cho vay cơ bản của các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính, gồm các hình thức cơ bản sau:

+) Cho vay trực tiếp (cho vay toàn bộ):

Cho vay trực tiếp hay cho vay toàn bộ là hình thức đơn giản nhất trong cho vay dự án. Trong đó công ty tài chính sau khi tiến hành thẩm định dự án phù hợp, xét thấy có đủ tiềm năng về vốn và không bị hạn chế về hạn mức tín dụng đối với tổ chức vay, công ty tài chính có khả năng bỏ hoàn toàn vốn của mình ra để trực tiếp cho vay. Toàn bộ lãi suất thu được từ việc cho vay và những rủi ro có thể xảy ra do cho vay đều thuộc công ty tài chính cho vay vốn, và tất cả các công đoạn trong quá trình cho vay về việc giải ngân, thu nợ đều do công ty tài chính trực tiếp đứng ra thực hiện.

+) Đồng tài trợ

Theo quyết định 154/1998/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng, thì :”Đồng tài trợ dự án của các Tổ chức tín dụng là quá trình cho vay- bảo lãnh của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng”.

+) Thu xếp vốn:

Hoạt động thu xếp vốn là một khái niệm tương đối mới với các tổ chức tín dụng. Thu xếp vốn ở đây được hiểu là việc CTTC tiến hành với tư cách trung gian giữa bên vay và bên cho vay nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn vay của dự án. Có thể nói hoạt động thu xếp vốn cho dự án được hình thành trên cơ sở đặc điểm riêng biệt của công ty tài chính trực thuộc tổng công ty hoặc tập đoàn. So với các NHTM, CTTC có số vốn điều lệ thấp hơn nhiều, các khoản cho vay lại bị khống chế bởi hạn mức tín dụng theo quy định của NHNN dẫn đến khả năng cung cấp vốn tín dụng của CTTC nhỏ hơn nhu

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí