LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề ngân hàng đã được hình thành từ rất lâu nhưng cho tới nay, nó vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế với ba chức năng cơ bản là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Trong ba chức năng này, chức năng trung gian tín dụng là chức năng quan trọng nhất đối với ngân hàng, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và cũng là cơ sở để ngân hàng thực hiện các chức năng khác. Với vai trò là trung gian tín dụng, ngân hàng tạo ra lợi ích cho tất cả các bên tham gia, bao gồm người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay, đồng thời góp phần phát triển nền kinh tế.
Trước thực trạng nền kinh tế ảm đạm, Nhà nước đã có những chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp phát triển, đẩy mạnh các hoạt động SXKD của mình. Đối với hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định giảm lãi suất cho vay. Với giải pháp này, các NHTM sẽ có cơ hội trung hòa lượng vốn giá cao đã huy động trong thời gian trước, qua đó có thể giảm nhanh lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi SXKD, thực hiện vai trò trung gian tín dụng của mình. Việc giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng giúp các doanh nghiệp có cơ hội vay vốn ngân hàng, vừa tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp, vừa thúc đẩy hoạt động ngân hàng, tạo việc làm cho nhiều người, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Cho vay bổ sung vốn lưu động là hoạt động mang lại nguồn thu lớn cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện nay. Vốn lưu động là nguồn đa dạng và chiếm tỉ trọng lớn trong các doanh nghiệp sản xuất. Nhu cầu vay là lớn, mục đích vay vốn đa dạng. Vì vậy, ngân hàng phải thực hiện thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động ngắn gọn, chính xác và hiệu quả để tạo cơ sở đưa ra phán quyết cho vay đối với khách hàng. Công tác thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng có ý nghĩa quan trọng. Dựa vào kết quả thẩm định, ngân hàng mới xem xét đến việc ra quyết định cho vay đối với khách hàng, lựa chọn chính xác khách hàng và tránh rủi ro cho ngân hàng.
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh, xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên, em lựa chọn đề tài khóa luận của mình là “Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 1
- Xác Định Nhu Cầu Vốn Lưu Động Của Doanh Nghiệp
- Khái Niệm Thẩm Định Cho Vay Bổ Sung Vốn Lưu Động
- Hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh - 5
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Mục tiêu nghiên cứu trước tiên của đề tài là làm rõ những lý luận cơ bản về vốn lưu động, cho vay bổ sung vốn lưu động và công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động của NHTM .
Sau khi làm rõ những lý luận cơ bản, đề tài hướng tới việc tìm hiểu rõ thực trạng cho vay bổ sung vốn lưu động và công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh.
Trên cơ sở so sánh giữa những lý luận cơ bản và thực trạng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh, tìm ra những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh.
Phạm vi nghiên cứu: Công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh giai đoạn năm 2009
– 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận:
Phương pháp thống kê: Thu thập số liệu, thông tin liên quan tới đề tài, sau đó tóm tắt và đưa ra kết luận, nhận xét dựa trên các thông tin thu thập được.
Phương pháp tổng hợp và phân tích: Số liệu sau khi được thu thập sẽ được tổng hợp trên các bảng, sơ đồ. Sau đó, dựa trên các bảng đã lập được, sơ đồ đã vẽ được, phân tích các chỉ tiêu theo hướng nghiên cứu của khóa luận.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục bảng biểu, danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, khóa luận bao gồm những phần sau:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động đối với khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định cho vay bổ sung vốn lưu động tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đông Anh.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH CHO VAY BỔ SUNG VỐN LƯU ĐỘNG ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Một số vấn đề cơ bản về vốn lưu động của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm vốn lưu động
Đối với doanh nghiệp sản xuất, cùng với tài sản cố định, tài sản lưu động là yếu tố không thể thiếu để tiến hành hoạt động SXKD. Số vốn để đầu tư vào tài sản lưu động trong doanh nghiệp được gọi là vốn lưu động. Như vậy, vốn lưu động chính là nguồn hình thành nên tài sản lưu động trong doanh nghiệp mà nếu không có nó, hoạt động SXKD của doanh nghiệp sẽ không thể diễn ra thường xuyên và liên tục được. Chính vì vai trò quan trọng của vốn lưu động đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp, doanh nghiệp luôn phải đảm bảo có lượng vốn lớn sẵn sàng đầu tư vào tài sản lưu động, phục vụ hoạt động SXKD. Tài sản lưu động là đối tượng lao động được sử dụng trong một chu kỳ kinh doanh, bao gồm tài sản lưu động trong sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động trong sản xuất là những vật tư dự trữ như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm: sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước… Vốn lưu động có thể được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn hoặc nguồn vốn dài hạn, vận động liên tục theo từng chu kỳ SXKD của doanh nghiệp.
Vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, cần phải làm rõ khái niệm thế nào là vốn lưu động.
Theo khái niệm trên trang web Wikipedia bằng tiếng Anh: Vốn lưu động (Working capital) là một thước đo tài chính đại diện cho tính thanh khoản hoạt động có sẵn cho một thực thể kinh doanh, tổ chức khác, bao gồm cả cơ quan chính phủ. Cùng với tài sản cố định như nhà máy và thiết bị, vốn lưu động được coi là một phần của vốn hoạt động.
Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” – Đại học Kinh tế quốc dân do Tiến sỹ Lưu Thị Hương chủ biên đưa ra khái niệm vốn lưu động như sau: Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động.
Như vậy, có thể hiểu vốn lưu động của doanh nghiệp như sau: Vốn lưu động của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp. Đó là số vốn ứng ra để hình thành các tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
1
1.1.2 Đặc điểm vốn lưu động
Vốn lưu động là nguồn hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp, do đó nó cũng trải qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này diễn ra liên tục và lặp lại theo chu kỳ: tiền – vật tư sản xuất – hàng hóa – tiền. Vốn lưu động bao gồm những đặc điểm sau:
Vốn lưu động được chuyển qua nhiều hình thái khác nhau theo từng giai đoạn: Hình thái ban đầu của vốn lưu động là hình thái tiền tệ. Khi mua vật tư, hàng hóa dự trữ cho sản xuất thì vốn lưu động chuyển sang hình thái vật tư, hàng hoá dự trữ. Khi vật tư dự trữ được đưa vào sản xuất, chúng được sử dụng để chế tạo thành thành phẩm, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang. Sau khi sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ, vốn lưu động quay về hình thái tiền tệ ban đầu của nó với một giá trị lớn hơn. Quá trình SXKD diễn ra liên tục, không ngừng, cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng, có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động.
Hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ SXKD: Khi tài sản lưu động trải qua một chu kỳ SXKD, từ khâu dự trữ sản xuất đến sản xuất và lưu thông thì vốn lưu động cũng hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vì vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên nó luôn gắn với quy trình hoạt động của tài sản lưu động.
Chuyển toàn bộ giá trị một lần vào thành phẩm và được thu hồi toàn bộ khi thu hồi tiền hàng: Vốn lưu động tham gia vào một chu kỳ SXKD và bị hao mòn hoàn toàn trong quá trình sản xuất. Giá trị của nó chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm để cấu thành nên giá trị thành phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ và thu được tiền thì toàn bộ giá trị của vốn lưu động được thu hồi về và tiếp tục được quay vòng để tài trợ cho hoạt động SXKD của các chu kỳ tiếp theo.
1.1.3 Vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động của doanh nghiệp
Vốn lưu động là điều kiện không thể thiếu của quá trình SXKD: Với doanh nghiệp, tài sản lưu động là yếu tố quan trọng, là tư liệu lao động để doanh nghiệp có thể tiến hành SXKD. Nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản lưu động cần thiết trong kỳ của doanh nghiệp sản xuất,chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và chuyển hóa toàn bộ giá trị vào trong giá thành sản phẩm. Do đó, để đảm bảo hoạt động SXKD diễn ra thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp phải luôn đảm bảo có đủ lượng vốn phục vụ khi cần thiết. Vì vậy, vốn lưu động là điều kiện không thể thiếu của quá trình SXKD của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư: Cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Tài sản lưu động trong khâu dự trữ và trong quá trình lưu thông cần lượng vốn là bao nhiêu, thời gian quay vòng là bao lâu. Thông qua quá trình luân chuyển vốn lưu động, có thể đánh giá kịp thời việc sử dụng vốn lưu động có hợp lý và
2
hiệu quả hay không, lượng vốn lưu động đầu tư vào tài sản lưu động trong các khâu đã phù hợp hay chưa, từ đó phân phối lại nguồn vốn lưu động, tránh lãng phí vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là một bộ phận trực tiếp hình thành nên giá thành sản phẩm: Do toàn bộ giá trị của vốn lưu động được chuyển hóa một lần vào trong một chu kỳ SXKD. Giá thành sản phẩm được tính toán trên cơ sở bù đắp các khoản chi phí cộng thêm khoản lợi nhuận ước tính. Do đó, vốn lưu động có vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra.
Vận động cùng với tài sản lưu động trong chu kỳ SXKD của doanh nghiệp, hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ khi doanh nghiệp thu được tiền hàng, cấu thành nên giá trị sản phẩm hàng hóa, vốn lưu động có vai trò quan trọng với doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp luôn phải cân nhắc cẩn thận trong việc sử dụng vốn, cần có kế hoạch sử dụng vốn cụ thể và hợp lý, từ đó mới tiết kiệm nguồn vốn lưu động, tạo điều kiện để mở rộng SXKD. Sử dụng không hợp lý vốn lưu động sẽ dẫn tới sự thiếu hụt về vốn lưu động cho kỳ sản xuất tiếp theo, ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, dẫn tới sự chậm trễ và ngưng trệ trong sản xuất, không mở rộng được quy mô doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tiết kiệm quá mức dẫn sẽ không đạt được hiệu quả sử dụng vốn, vốn lưu động thừa trong khi doanh nghiệp vẫn có thể dùng để mở rộng sản xuất hơn nữa.
1.1.4 Phân loại vốn lưu động
Trong hoạt động của doanh nghiệp, vốn lưu động rất đa dạng nhưng chỉ tham gia vào một chu kỳ SXKD và thường xuyên thay đổi hình thái vật chất nên cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động để dễ dàng quản lý.
Dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau mà vốn lưu động được phân loại khác nhau:
1.1.4.1 Phân loại theo vai trò của từng loại vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
Dựa theo tiêu chí này, vốn lưu động được chia thành:
Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm vốn nguyên liệu, vật liệu chính, vốn công cụ, dụng cụ, vốn vật liệu, vốn vật liệu phụ, vốn phụ tùng thay thế.
Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Gồm vốn sản phẩm dở dang và vốn về các chi phí trả trước.
Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Vốn thành phẩm, vốn bằng tiền, vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán và các loại khác (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn…), vốn trong thanh toán (những khoản phải thu, tạm ứng…).
Cách phân loại này cho thấy vai trò của vốn lưu động trong từng giai đoạn trong quy trình SXKD của doanh nghiệp, từ đó có thể phân bổ lượng vốn phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn sản xuất.
3
1.1.4.2 Phân loại theo hình thái biểu hiện của vốn
Dựa theo hình thái biểu hiện, có thể chia vốn lưu động thành các loại:
Vốn bằng tiền và và vốn trong thanh toán:
Vốn bằng tiền: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, kim loại quý (vàng, bạc, đá quý…).
Vốn trong thanh toán: các khoản nợ phải thu, tạm ứng, các khoản phải thu khác…
Vốn vật tư, hàng hóa: Bao gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ; sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản…
Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.1.4.3 Phân loại theo quan hệ sở hữu về vốn
Tài sản lưu động được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Vốn chủ sở hữu tài trợ chủ yếu cho tài sản cố định, một phần còn lại tài trợ cho tài sản lưu động. Còn các khoản nợ tài trợ cơ bản, chủ yếu cho nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp.
Phân loại vốn lưu động theo quan hệ sở hữu về vốn thì vốn lưu động được chia thành 2 loại:
Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Vốn chủ sở hữu có thể là vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra, vốn góp trong công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, vốn bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp… Doanh nghiệp dùng vốn chủ sở hữu tài trợ cho vốn lưu động thì không phải chịu áp lực trả lãi, trả nợ theo kỳ hạn mà tùy thuộc vào tình hình SXKD của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chi phí sử dụng vốn này lại cao hơn do các nhà đầu tư bao giờ cũng yêu cầu khoản lợi nhuận khi đầu tư vào doanh nghiệp cao hơn so với khi cho vay vì mức độ rủi ro của hoạt động SXKD. Ngoài ra, cổ tức trả cho cổ đông hoặc các hình thức thưởng khác trả cho các nhà đầu tư lại bị đánh thuế nên doanh nghiệp sử dụng ít vốn chủ sở hữu để tài trợ cho vốn lưu động.
Các khoản nợ: Là các khoản được hình thành từ vốn vay các NHTM, khoản chiếm nợ dụng tạm thời của nhà cung cấp, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng các khoản
4
nợ này trong một thời gian nhất định. Ưu điểm của việc dùng các khoản nợ để tài trợ cho vốn lưu động là lãi suất phải trả cho các khoản nợ được miễn thuế, chi phí sử dụng các khoản nợ thấp hơn chi phí sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể phụ thuộc quá nhiều vào các khoản nợ để tài trợ cho vốn lưu động, khi đó thì tình hình tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, dẫn tới những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý, hiệu quả hơn, đảm bảo an ninh tài chính, tính tự chủ trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.1.4.4 Phân loại vốn lưu động theo nguồn hình thành
Dựa theo nguồn hình thành vốn lưu động, có các cách phân loại như sau:
Nguồn vốn điều lệ: Là số vốn được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc vốn điều lệ bổ sung trong quá trình SXKD của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Nguồn vốn tự bổ sung: Là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình SXKD như từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Là số vốn được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá theo thoả thuận của các bên liên doanh. Nguồn vốn điều lệ, nguồn vốn tự bổ sung và nguồn vốn liên doanh, liên kết là những nguồn vốn mà thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng. Do đó, khi đầu tư bằng các nguồn vốn này vào vốn lưu động, bao giờ nhà đầu tư cũng yêu cầu mức sinh lời cao hơn so với các nguồn vốn đi vay khác. Vì chi phí sử dụng các nguồn vốn trên cao nên các doanh nghiệp ít sử dụng để đầu tư cho
vốn lưu động.
Nguồn vốn đi vay: Vốn vay của các NHTM hoặc tổ chức tín dụng phi ngân hàng, vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp, vay các doanh nghiệp khác.
Với nguồn vốn đi vay, doanh nghiệp phải trả lãi thấp nên chi phí sử dụng vốn vay thấp hơn so với các nguồn vốn khác. Mặt khác, lãi vay phải trả được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp nên các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng nguồn vốn vay này để tài trợ cho vốn lưu động, phục vụ hoạt động SXKD, tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận.
Nguồn vốn huy động khác: Vốn huy động từ thị trường vốn bằng việc phát hành trái phiếu hoặc vốn chiếm dụng của nhà cung cấp.
Để được phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải đạt được những điều kiện theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, thời gian để doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn
5
này cũng chậm hơn so với vay ngân hàng và dùng vốn chủ sở hữu. Số vốn huy động có thể không đáp ứng được đủ nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Với nguồn vốn chiếm dụng từ nhà cung cấp, doanh nghiệp chỉ tạm thời chiếm dụng được trong thời gian ngắn, nếu chiếm dụng lâu sẽ ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính, mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó, doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn.
1.1.5 Ý nghĩa của việc xác định nhu cầu vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình SXKD của doanh nghiệp, vốn lưu động là một yếu tố không thể thiếu được và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các nhiệm vụ SXKD, là điều kiện tiên quyết để tiến hành hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Bởi vậy để doanh nghiệp sản xuất thường xuyên và liên tục, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định nhu cầu về vốn lưu động phù hợp tính chất và quy mô SXKD.
Đối với một doanh nghiệp SXKD thông thường, nhu cầu vốn lưu động thường được tính đơn giản hóa bằng công thức sau:
Nhu cầu vốn lưu động = dự trữ + khoản phải thu – khoản phải trả
Các khoản dự trữ nằm trong hàng tồn kho. Khoản phải thu phát sinh trong các quan hệ tín dụng thương mại với khách hàng, các khoản phải thu khác. Khoản phải trả phát sinh trong quan hệ tín dụng thương mại với người bán, các khoản phải trả ngắn hạn khác.
Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động là cần thiết trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp, để đảm bảo hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, tiết kiệm với hiệu quả kinh tế cao. Xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp tránh được tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, đáp ứng yêu cầu SXKD, không gây sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn và là căn cứ quan trọng cho việc xác định các nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
Khi vốn lưu động nhỏ hơn nhu cầu vốn lưu động, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất, tạo ra sự căng thẳng về vốn. Với tính chất tuần hoàn, chu kỳ của vốn lưu động, khi có khó khăn về vốn lưu động trong bất kỳ giai đoạn nào thì cũng có thể ảnh hưởng tới toàn bộ quy trình tái sản xuất sau này: sản xuất bị ngừng trệ, không có khả năng trả nợ, không có đủ vốn thực hiện các hợp đồng kinh tế… Mặt khác, vốn lưu động được tài trợ chủ yếu từ các khoản nợ nên khi thiếu vốn, doanh
6