1.2.2.6 Hợp tác quốc tế, khu vực về lĩnh vực du lịch
Nâng cao tính liên kết là một điều kiện tất yếu để phát triển bền vững ngành du lịch trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp du lịch và cơ quan quản lý nhà nước cũng sẽ tạo nên một môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Để đạt được điều này, một mặt, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương và địa phương phải thống nhất và luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhau trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về du lịch; thực hiện nguyên tắc và các cơ chế, chính sách phát triển du lịch của quốc gia nói chung và ở địa phương nói riêng nhằm đảm bảo đạt hiệu lực, hiệu quả.
Mặt khác, trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch ở địa phương, chính quyền cấp tỉnh cần làm tốt việc cung cấp thông tin, cập nhật chính sách mới về du lịch, tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý nhà nước và cán bộ quản trị doanh nghiệp để giúp họ hiểu rõ về các cam kết, nghĩa vụ của Nhà nước và của doanh nghiệp theo luật pháp quốc tế và điều kiện của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Chính quyền cấp tỉnh cần phải trở thành trung tâm gắn kết giữa các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn với thị trường liên vùng, khu vực và trên thế giới, nhất là với các trung tâm kinh tế lớn. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động xúc du lịch, tổ chức các hội thảo, famtrip kết hợp tham quan trao đổi kinh nghiệm với các địa phương khác trong nước và quốc tế.
1.2.2.7. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động du lịch
Cơ quan nhà nước địa phương phải thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động du lịch để phòng ngừa hoặc ngăn chặn kịp thời những hành vi tiêu cực có thể xảy ra như khai thác quá mức các công trình, khu, điểm du lịch, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, những hoạt động kinh doanh du lịch trái với bản sắc văn hóa của đất nước, của địa phương. Tạo lập một môi trường kinh doanh, môi trường du lịch an toàn, thân thiện, lành mạnh.
Để thực hiện tốt nội dung này, cơ quan nhà nước cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và những quy định của tỉnh về đầu tư khai thác các điểm, khu du lịch trên địa bàn; thực hiện việc đăng ký và hoạt động theo đăng ký kinh doanh, nhất là những hoạt động kinh doanh có điều kiện như: kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành, hướng dẫn viên du lịch... đồng thời cần xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về du lịch.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ DU LỊCH
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về du lịch tỉnh TT.Huế - 2
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Quản Lý Nhà Nước
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch
- Tốc Độ Tăng Gdp Tỉnh Thừa Thiên Huế, Giai Đoạn 2001 – 2015,
- Đánh Giá Thực Trạng Hoạt Động Và Phát Triển Của Du Lịch Tỉnh Thừa Thiên Huế
- Tình Hình Nguồn Nhân Lực Du Lịch Của Tỉnh Thừa Thiên Huế
Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.
1.3.1.1. Nhân tố về điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch
Là một hoạt động đặc trưng, du lịch chỉ phát triển được trong những điều kiện mà nó cho phép, bên cạnh đó do đặc điểm vị trí địa lý từng vùng mà nó tạo nên những tiềm năng du lịch khác nhau. Điều kiện tự nhiện là toàn bộ các điều kiện môi trường tự nhiên như: địa hình đa dạng; khí hậu ôn hòa; vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn… Đây là cơ sở cho quy hoạch phát triển du lịch và các biện pháp chính sách để phát triển sản phẩm du lịch, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch. Những yếu tố về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi đã giúp cho việc hoạch định phát triển du lịch và đưa ra thực thi các quyết định quản lý nhà nước về du lịch một cách chính xác, mang tính lâu dài.
1.3.1.2. Nhân tố kinh tế - xã hội
Tình hình phát triển kinh tế của địa phương là nhân tố quan trọng tác động tới sự phát triển của du lịch. Khi các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của một điểm du lịch biến động có thể là nguyên nhân làm vai trò và sự đóng góp của ngành du lịch cho nền kinh tế trở nên không ổn định. Khi kinh tế phát triển ổn định với môi trường chính sách thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và du khách thuận lợi tham gia vào các hoạt động du lịch, điều đó cũng thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước
Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đón tiếp và cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Có hai loại cơ sở vật chất kỹ thuật đó là: cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cơ sở hạ tầng xã hội. Các thành tựu kinh tế, chính trị cũng có sức thu hút đối với nhiều khách du lịch.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Đường lối phát triển du lịch
Đường lối phát triển du lịch có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với mỗi quốc gia, mỗi địa phương, bởi nó chính là chìa khóa đem lại sự thành công cho ngành công nghiệp không khói này. Đường lối phát triển du lịch được biểu hiện cụ thể qua các chính sách, chiến lược, phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch về tổng thể dài hạn như: chiến lược đầu tư, xúc tiến, quảng bá du lịch, chiến lược về sản phẩm, nâng cao chất lượng các dịch vụ, giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên môi trường đi kèm với đó là những giải pháp cơ bản nhất để nhằm thực hiện chiến lược. Nó góp phần hỗ trợ và giúp các nhà quản lý chủ động trong kế hoạch đầu tư phát triển ngành du lịch, tạo cơ sở xây dựng các quyết sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế.
Bên cạnh đó, du lịch là ngành kinh tế đa ngành, đa vùng và đa lĩnh vực, có tính xã hội hóa cao, khi du lịch càng phát triển thì đối tượng của quản lý nhà nước càng đa dạng, quy mô càng rộng lớn, vì vậy quản lý nhà nước cần phải có định hướng đổi mới về chính sách, tổ chức, điều hành tới kiểm soát, chỉ có vậy quản lý nhà nước mới có hiệu lực thật sự.
1.3.2.2. Nhân tố thuộc về cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch là gồm các cơ quan từ cấp địa phương đến cấp trung ương; bộ máy tổ chức ở địa phương cấp tỉnh cao nhất là UBND tỉnh tiếp theo là Sở Du lịch (hay Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch); ở cấp trung ương là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch. Hoạt động quản lý nhà nước về du lịch là các quyết định quản lý nhà nước, quá trình này cũng đòi hỏi phải có các nguồn lực để thực hiện. Do đó số lượng điều kiện nguồn lực cũng quyết định tới chất lượng hoạt động của công tác quản lý nhà nước về du lịch.
Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước về du lịch có hiệu lực và hiệu quả thì các nhân tố bên trong rất quan trọng như tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, nguồn nhân lực và nguồn lực cho quản lý.
1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình là một tỉnh nằm ở phần đông của dãy Trường Sơn với điều kiện tự nhiên đa dạng tạo thành những khu vực tài nguyên du lịch tự nhiên thuộc loại độc đáo và có giá trị lớn nhất của Việt Nam. Quảng Bình là một tỉnh ven biển có những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển trong đó có du lịch, với bờ biển dài 116,04 km trong đó có 2 cửa sông lớn có khả năng phát triển thành cảng biển quy mô lớn như cảng Nhật Lệ, cảng Gianh. Vùng ven biển Quảng Bình là nơi tập trung phần lớn tiềm năng du lịch với 9 bãi tắm chính, nhiều điểm du lịch biển nổi tiếng như cửa Nhật Lệ, Bảo Ninh, vịnh Hòn La, bãi tắm Đá Nhảy… và một số bãi biển tắm còn ở dạng tiềm năng ở khu vực Nam Lệ Thủy. Ngày nay, Cửa Nhật Lệ là một thắng cảnh tuyệt vời của tỉnh Quảng Bình.
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng nằm ở huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Bên cạnh đó trong khu vực Phong Nha Kẻ Bàng còn rất nhiều điểm du lịch hấp dẫn du khách như Khu du lịch nguyên sinh suối nước Mộc, các bản dân tộc Rục, thôn Chày Lập... Trong những năm qua, Khu du lịch Phong Nha - Kẻ Bàng đã trở thành địa chỉ yêu thích của du khách. Số lượng khách du lịch đến tham quan Phong Nha - Kẻ Bàng ngày càng tăng.
Phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nằm trong định hướng phát triển KT-XH của tỉnh Quảng Bình, do đó, định hướng phát triển du lịch phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, có như vậy, phát triển du lịch mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế khác của tỉnh. Ngày 12/8/2011, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1928/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025. Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh để đẩy mạnh phát triển du lịch, huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong tỉnh, trong nước và quốc tế để khai thác có hiệu quả các tiềm năng du lịch, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Mục tiêu đưa Quảng Bình trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh; tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào tăng trưởng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng GDP du lịch dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và cộng đồng dân cư, tăng nguồn thu ngân sách; tạo tiền đề cho các ngành kinh tế khác phát triển. Phấn đấu đạt được các mục tiêu:
- Số lượng khách du lịch tăng trưởng từ 11 - 12%/năm, đến năm 2020 đón được hơn 5.500 nghìn lượt khách.
- Thu nhập du lịch đạt hơn 2.000 tỷ đồng vào năm 2020, tốc độ tăng trưởng đạt trên 20%/năm.
Những năm gần đây, du lịch Quảng Bình có nhiều bước phát triển mạnh mẽ, các thành phần kinh tế đã quan tâm đến việc đầu tư phát triển du lịch, xem đây là một lĩnh vực đầu tư có hiệu quả. Hoạt động của Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch, Hiệp hội Du lịch đã góp phần quan trọng trong công tác quảng bá hình ảnh điểm đến du lịch Quảng Bình, liên kết hợp tác với các địa phương, doanh nghiệp và thúc đẩy đầu tư. Việc xây dựng và phát triển sản phẩm được quan tâm và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Nguồn nhân lực phục vụ cho ngành được chú trọng đào tạo, thu hút nhân tài, góp phần quan trọng vào việc đưa dịch vụ du lịch ngày càng chuyên nghiệp.
1.4.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng được xem là thành phố du lịch của cả nước, là một trong những địa phương có ngành du lịch phát triển. Đà Nẵng có lợi thế như nằm ở vị trí trung tâm của các di sản, có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, phát triển mang tính đồng bộ với cảng biển, sân bay quốc tế, là điểm cuối ra biển Đồng của tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, có những bãi biển đẹp.
Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ/TU về Đẩy mạnh phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ mới, xây dựng các chương trình hành động cụ thể như Tập trung phát triển mạnh mẽ về du lịch và các dịch vụ mà thành phố có thế mạnh, xây dựng Đà Nẵng trở thành một trung tâm
thương mại, dịch vụ, du lịch lớn của đất nước theo tinh thần Nghị quyết 33 - NQ/BCT của Bộ Chính trị về Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung xây dựng 04 chương trình phát triển du lịch đến năm 2020 gồm: Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch, phát triển sản phẩm du lịch, chương trình về cơ chế chính sách và chương trình xúc tiến quảng bá du lịch.
Về công tác phát triển sản phẩm du lịch, trên cơ sở những tiềm năng phong phú về tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, lịch sử Đà Nẵng có sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn như: Cáp treo Bà Nà với 02 kỷ lục thế giới; Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn; Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chămpa; khu dịch Núi Thần Tài…
Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch được đặc biệt chú trọng, thành phố dã xúc tiến mở và duy trì nhiều đường bay trực tiếp đến thành phố gồm: Singapore - Đà Nẵng, đường bay Quảng Châu - Đà Nẵng, đường bay Đài Bắc - Đà Nẵng, Hàn Quốc - Đà Nẵng…
Việc tổ chức thành công các sự kiện hàng năm: Cuộc thi bắn pháo hoa Quốc tế, Lễ hội Quan Thế Âm,... đã thu hút hàng trăm nghìn du khách trong nước và quốc tế đến tham gia, thưởng ngoạn, tạo hiệu ứng lớn về truyền thống, quảng bá du lịch Đà Nẵng với bạn bè quốc tế.
Bên cạnh khai thác hiệu quả các sản phẩm du lịch, Đà Nẵng cũng hết sức quan tâm tới công tác bảo vệ môi trường, xanh sạch nhằm bảo đảm du lịch phát triển bền vững, giữ gìn các sản phẩm du lịch, tạo sự thoải mái cho khách du lịch khi ghé thăm tại thành phố. Đồng thời, Đà Nẵng đã chỉ đạo dẹp bỏ tình trạng hàng rông, và người ăn xin, nhằm hạn chế tình trạng chèo kéo khách du lịch, tạo ra môi trường mỹ quan đẹp cho thành phố. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng dẫn hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh theo đúng pháp luật. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Du lịch trong các hoạt động du lịch của Thành phố.
1.4.3. Bài học rút ra cho công tác quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là địa phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển du
lịch, Thừa Thiên Huế đặc biệt quan tâm đến tính bền vững trong phát triển du lịch,
gắn hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống, bảo vệ môi trường sinh thái, xúng đáng là thành phố xanh, thành phố Festival của Việt Nam. Để làm được điều đó, công tác quản lý nhà nước cần phải hoàn thiện và hiệu lực hơn nữa. Từ kinh nghiệm hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương trên, có thể rút ra một số bài học cho tỉnh Thừa Thiên Huế như sau:
- Phải xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển cho thời gian dài hợp lý; có chiến lược, kế hoạch và các chính sách khai thác tiềm năng thúc đẩy du lịch phát triển đồng bộ, thống nhất và có các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn phát triển. Đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
- Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương để thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó tăng cường tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch các sản phẩm của địa phương đến với du khách trong nước và nước ngoài.
- Kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Sở Du lịch, phát huy công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn, quan tâm công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, áp dụng các hình thức điều động, luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ có điều kiện tiếp cận thực tiễn trong quản lý, điều hành hoạt động du lịch.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với hoạt động du lịch, kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong kinh doanh du lịch, đồng thời làm tốt việc bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường tự nhiên và xã hội của du lịch.
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư tham gia vào hoạt động du lịch, tạo môi trường du lịch văn minh, thân thiện, mến khách.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ DU LỊCH TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. TỔNG QUAN VỀ TỈNH VÀ SỞ DU LỊCH THỪA THIÊN HUẾ
2.1.1 Đặc điểm cơ bản của tỉnh Thừa Thiên Huế
2.1.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Thừa Thiên Huế là một trong năm tỉnh thuộc vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung. Diện tích tự nhiên là 5.053,99 km2, kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nơi dài nhất 120 km (dọc bờ biển), nơi ngắn nhất 44 km (phần phía Tây); mở rộng chiều ngang theo hướng Đông Bắc - Tây Nam với nơi rộng nhất dọc tuyến cắt từ xã Quảng Công (Quảng Điền), phường Tứ Hạ (thị xã Hương Trà) đến xã Sơn Thủy - Ba Lé (A Lưới) 65km và nơi hẹp nhất là khối đất cực Nam chỉ khoảng 2-3km.
Dân số năm 2015 là 1.143.572 người, mật độ dân số là 228 người /km2; Về phân bố, có 556.056 người sinh sống ở thành thị và 587.516 người sinh sống ở vùng nông thôn; Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên là 623.480 người (trong đó lao động nữ 306.450 người); có ranh giới chung với các tỉnh Quảng Trị ở phía Bắc, tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng ở phía Nam, nước Cộng hoà nhân dân Lào ở phía Tây và biển Đông ở phía Đông tạo điều kiện thuận lợi để kết nối với các điểm du lịch nổi bật khác trong khu vực… hay các điểm du lịch ở Lào, Thái Lan… theo tuyến hành lang đông - tây được hình thành trong khu vực. Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 654 km, Nha Trang 627 km và Thành phố Hồ Chí Minh 1.071 km.
* Địa hình
Lãnh thổ Thừa Thiên Huế được cấu tạo bởi các dạng địa hình chủ yếu sau:
- Địa hình núi chiếm khoảng 1/4 diện tích, từ biên giới Việt - Lào và kéo dài
đến thành phố Đà Nẵng.
- Địa hình trung du chiếm khoảng 1/2 diện tích, độ cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải và phần lớn là đồi bát úp, với chiều rộng vài trăm mét.