3.2.1.3. Các hỗ trợ đối với nông dân về cơ bản là phù hợp với cam kết gia nhập WTO
Sau khi gia nhập WTO, nhận thức của các ngành, các cấp về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có bước chuyển tích cực theo hướng quan tâm nhiều hơn, đầu tư tập trung hơn cho các khâu quan trọng trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản để tăng hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Hàng loạt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được ban hành hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với cam kết WTO. Các chính sách thuộc “hộp xanh lá cây” đã được quan tâm thực hiện như chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong mức hạn điền, bỏ thuỷ lợi phí, giảm các khoản đóng góp cho nông dân, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ sau thu hoạch, nông nghiệp công nghệ cao vùng ven thành phố lớn. Nhờ đó nền nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để tham gia vào sân chơi “toàn cầu”. Các chính sách thuộc “hộp xanh lơ” cũng được chú trọng để nâng cao năng lực sản xuất, đảm bảo thu nhập và giúp nông dân xóa đói, giảm nghèo như hỗ trợ lãi suất tín dụng, hỗ trợ nông dân nghèo…
Từ thực tiễn giải quyết vướng mắc, tranh chấp trong thương mại quốc tế, kể cả bị nước ngoài kiện bán phá giá, Nhà nước và các doanh nghiệp tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Ngoài việc nâng cao chất lượng, tạo ra sự liên kết trong nước, liên kết với các quốc gia trên thế giới để giải quyết tranh chấp một cách khôn khéo, vừa theo những quy định của WTO vừa bảo vệ quyền lợi quốc gia và doanh nghiệp là những định hướng, cách làm rất cần thiết trong hội nhập kinh tế quốc tế của ngành nông nghiệp. Theo cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi nhiều chính sách phù hợp với các cam kết gia nhập WTO và thông lệ quốc tế.
3.2.2. Một số vấn đề hạn chế trong hỗ trợ nông dân sau gia nhập WTO
3.2.2.1. Mức độ đáp ứng của các hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu của nông dân
Người nông dân Việt Nam vốn chỉ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống và từ những xã viên hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ chỉ biết làm theo mệnh lệnh của cấp trên trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nay chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập, cạnh tranh với các sản phẩm đã đạt đến trình độ sản xuất hiện đại ở các nước phát triển phải đối mặt với không ít khó khăn. Họ thiếu đủ mọi thứ cần thiết để có thể sản xuất hiệu quả và cạnh tranh thắng lợi như vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng, bản lĩnh, tổ chức, thông tin thị trường, hạ tầng kinh tế... Nhà nước đã có nhiều nỗ lực
hỗ trợ nông dân vượt qua những thiếu thốn đó, tuy nhiên những hỗ trợ đó còn quá thấp so với nhu cầu cần đáp ứng. Chẳng hạn, hỗ trợ về tài chính mang tính nhỏ giọt, hoặc là quá ít, hoặc là được khâu này, bỏ khâu khác, vừa làm giảm hiệu quả hỗ trợ, vừa không đủ sức hấp dẫn nông dân. Quy mô vay vốn ưu đãi cũng quá thấp và theo quan điểm bình quân, không phù hợp với quan điểm sản xuất của người vay. Các hỗ trợ khuyến nông chỉ đủ sức tổ chức mô hình trình diễn, mà không đủ hỗ trợ nông dân áp dụng đại trà nên tác dụng lan tỏa của khuyến nông còn thấp. Hỗ trợ đào tạo nghề mới đáp ứng được tỷ lệ nhỏ những người muốn chuyển nghề ở nông thôn. Cơ cấu đầu tư không hợp lý, tỷ trọng đầu tư cho KH-CN trong nông nghiệp mới đạt 0,13% GDP, trong khi đó các nước khác là 4%. Chính sách của Nhà nước về đầu tư nói chung, thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng vẫn chưa phù hợp nhưng lại chậm đổi mới, kể cả khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Các chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số cho hỗ trợ trong nhóm hộp xanh, mới chiếm tỷ lệ khoảng 1 - 3% .
Bảng 3.10: Mức độ đáp ứng của một số chính sách hỗ trợ đối với nông dân
Các hỗ trợ | Mức độ đáp ứng | ||||
Có tác động tốt | Chưa có chuyển biến | Không có áp dụng | Ý kiến khác | ||
1 | Hỗ trợ về đất đai | 45,8% | 46,7% | 0,5% | 7% |
2 | Hỗ trợ về đầu tư KH-CN | 32% | 59,3% | 6,4% | 2,4% |
3 | Phát triển thị trường | 22,9% | 68,4% | 4,3% | 4,5% |
4 | Đào tạo nguồn nhân lực | 21,8% | 70,4% | 5,2% | 2,5% |
5 | Xây dựng kết cấu hạ tầng | 62,8% | 31,5% | - | 5,7% |
Có thể bạn quan tâm!
- Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Trong Nông Nghiệp Sau Gia Nhập Wto
- Tác Động Của Chính Sách Phát Triển Kh-Cn Đến Sự Phát Triển Nông Nghiệp, Nông Thôn Và Nâng Cao Đời Sống Nông Dân
- Hỗ Trợ Đào Tạo Nghề Và Giải Quyết Việc Làm Cho Nông Dân
- Chính Sách Hỗ Trợ Nông Dân Trong Điều Kiện Hội Nhập Wto Là Lĩnh Vực Mới Đối Với Nhà Nước Việt Nam
- Về Hỗ Trợ Hông Dân Tiếp Cận Vốn Tín Dụng Thuận Lợi
- Về Hỗ Trợ Nông Dân Ứng Dụng Khoa Học - Công Nghệ Vào Sản Xuất
Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.
Nguồn: [17, tr.423-426]
3.2.2.2. Một số chính sách, phương thức hỗ trợ đã không còn phù hợp nhưng chậm được đổi mới đã kìm hãm cơ hội để nông dân phát triển kinh tế
Một số chính sách đã có tác dụng trong thời kỳ đầu đổi mới, đến nay không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi. Chẳng hạn, chính sách giao quyền sử dụng đất chưa đảm bảo cho người nông dân được tự chủ hoàn toàn trong việc chuyển đổi mục đích canh tác trên đất đã được giao sao cho có hiệu quả, nhất là đối với đất trồng lúa; chính sách “hạn điền” đã tỏ ra mâu thuẫn với sản xuất hàng hóa lớn nhưng vẫn chưa được sửa chữa dẫn đến tình trạng nông dân ai cũng có đất, nhưng đất không đảm bảo đủ sống, không đủ sản xuất, kinh doanh ở quy mô hiệu quả khiến nông dân trả ruộng,
bỏ ruộng đi tìm việc làm ở thành phố, cá biệt có nơi bỏ đất hoang hóa; chính sách chia bình quân đất đai có tác dụng tốt nhằm ổn định tình hình khi giao đất nhưng kéo dài quá lâu sẽ dẫn tới hiện tượng manh mún, cản trở quá trình cơ giới hóa, cản trở hoạt động phối hợp trong bảo vệ thực vật... Mặc dù Nhà nước có chủ trương tháo gỡ bằng phong trào dồn điền đổi thửa, nhưng chi phí tổ chức khá lớn, đi đôi với thủ tục chuyển nhượng phức tạp khiến phong trào này không có tác động đáng kể trong tập trung đất. Hoặc chính sách hỗ trợ KH-CN chưa đủ mạnh thu hút tư nhân tham gia nghiên cứu phục vụ sản xuất nông sản, đặc biệt là nông sản xuất khẩu. Do mới chú trọng chọn tạo, nhập khẩu những giống có năng suất cao mà chưa tập trung cho các giống có chất lượng cao nên chất lượng nông sản của Việt Nam chưa cao, làm giảm tương đối giá trị xuất khẩu nông sản trong khi khối lượng xuất khẩu tăng, chưa tạo được động lực mạnh khuyến khích các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học dồn hết tâm lực cho việc nghiên cứu và chuyển giao các kết quả nghiên cứu.
Chính sách hỗ trợ tiêu thụ nông sản đưa ra chưa thực sự phù hợp và bám sát những thay đổi của kinh tế, xã hội. Với mục tiêu nhằm gia tăng giá trị mà người nông dân nhận được trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu nên lợi ích của nông dân cần phải được đặt ở vị trí trung tâm. Các hỗ trợ đã và đang thực hiện mặc dù về cơ bản đã đảm bảo gia tăng lợi ích của đối tượng này nhưng thực tế chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Điển hình là cách điều hành kinh doanh lúa gạo chưa sát với tình hình biến động của thị trường nông sản thế giới và trong nước khiến cho việc xuất khẩu gạo chưa đạt được lợi ích lớn nhất cho đất nước.
Hình 3.8: Nhận xét của cán bộ các cấp về cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn
8 0 %
7 0 %
Cán bộ cấp tỉnh
6 0 %
5 0 %
4 0 %
Cán bộ cấp huyện
3 0 %
2 0 %
1 0 %
Cán bộ cấp xã
0 %
Đầy đủ
còn thiếu vừa thiếu vừa
chồng chéo
Nguồn: [17, tr.288]
3.2.2.3. Tính hiệu quả, hiệu lực và đồng bộ của một số hỗ trợ của Nhà nước còn thấp
Hỗ trợ nông dân trong liên kết và tiêu thụ nông sản (theo quyết định 80) không có hiệu lực khi nó không có tác dụng trong thực tế: nông dân chạy theo lợi ích trước mắt mà phá bỏ hợp đồng; doanh nghiệp thì không thực hiện đúng cam kết về giống, phân bón và đặc biệt là bao tiêu sản phẩm đầu ra, nhà khoa học không không có sản phẩm giống cây, con cũng như có nhiều nghiên cứu có tính ứng dụng cao; Nhà nước không có trách nhiệm rõ ràng trong chuỗi liên kết này khiến cho liên kết trở nên hình thức và phi thực tế. Ngay cả chủ trương xây nhà máy chế biến nông sản tại vùng nguyên liệu cũng không ngoài tình trạng trên. Khi có nhà máy rồi thì không có nguyên liệu vì nông dân trồng loại nông sản khác, có chỗ có nguyên liệu thì không có nhà máy chế biến. Điều này vừa gây lãng phí nguồn lực vừa khiến cho sản xuất của nông dân ở những vùng này lâm vào khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống. Hoặc quy định của Nhà nước về giá sàn của gạo xuất khẩu nhằm mục tiêu an ninh lương thực quốc gia là đúng đắn, song ở một số thời điểm nó lại làm giảm sản lượng và kim ngạch xuất khẩu do các doanh nghiệp không ký được hợp đồng vì giá doanh nghiệp đưa ra thấp hơn giá sàn. Hơn nữa, khi các doanh nghiệp tìm cách “lách quy định” sẽ làm cho chính sách không có hiệu lực.
Cũng chính vì tính hiệu lực của một số hỗ trợ đã và đang thực hiện còn thấp nên hiệu quả của các hỗ trợ đó cũng trong tình trạng tương tự. Mặc dù Việt Nam vị trí cao trên thế giới về xuất khẩu nông sản (gạo, cà phê, tiêu…) nhưng mới chỉ dừng lại ở việc gia tăng sản lượng, kim ngạch có tăng nhưng vẫn chưa tương xứng với vị thế trên. Phần giá trị trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu mà nông dân Việt Nam nhận được rất thấp do nông sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, sản phẩm đã qua chế biến chiếm tỷ trọng rất thấp như cà phê (khoảng 3- 5%), gạo Việt Nam luôn bán thấp hơn so với gạo Thái Lan, thậm chí một số nông sản xuất hiện ở thị trường nước ngoài dưới tên gọi thương hiệu của quốc gia khác. Thực tế nhiều năm qua, nông dân Việt Nam vẫn đang loay hoay với tình trạng “trồng, chặt”, “chặt, trồng”, “được mùa ngoài đồng, mất mùa trong nhà”. Trong bối cảnh hội nhập WTO, sản xuất nông nghiệp cần phải quan tâm thấu đáo vấn đề thị trường tiêu thụ, sản xuất phải gắn chặt với vấn đề đầu ra. Việc xác định mặt hàng nào cần sản xuất cần phải được nghiên cứu thị trường một cách thấu đáo và khoa học, không thể chạy theo phong trào.
Không thể phủ nhận rằng, các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân thời gian qua là khá đồng bộ và bước đầu tạo nên những thành tựu vượt bậc cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế cần phải được hoàn thiện trong điều kiện mới. Hỗ trợ cho vay vốn và lãi suất đối với các chủ thể luôn được Nhà nước quan tâm nhưng nông dân lại là chủ thể chịu nhiều thiệt thòi nhất trong cuộc cạnh tranh nhằm vay vốn mở rộng sản xuất. Các quy định của Luật đất đai về mức hạn điền và thời gian sử dụng đất vẫn còn bất hợp lý làm cho người sản xuất khó có thể mở rộng quy mô sản xuất cũng như đầu tư các trang thiết và công nghệ hiện đại. Do thuế VAT đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp còn cao đã làm tăng chi phí sản xuất nông sản, lợi nhuận thu được của nông dân rất thấp, thậm chí còn bị thua lỗ.
3.2.2.4. Một số hỗ trợ chưa đem lại lợi ích trực tiếp cho phần lớn nông dân
Có rất nhiều chính sách hỗ trợ nông dân và chủ yếu thông qua hai hình thức là trực tiếp hoặc gián tiếp. Song, trên thực tế, nông dân hưởng lợi từ những chính sách này không nhiều, thậm chí không thể tiếp cận được.
Ở nước ta, các chính sách trợ cấp thu nhập trực tiếp do nông dân đã được thực hiện nhưng chưa có tính chất hệ thống. Thường trợ cấp trực tiếp được áp dụng cho các trường hợp nông dân phải tiêu hủy sản phẩm trong dịch bệnh hoặc do thiên tai. Mức hỗ trợ không căn cứ vào mức thiệt hại thực tế của nông dân mà căn cứ vào khả năng của Nhà nước. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ này không đáng kể so với thiệt hại thực tế của nông dân. Nhiều trường hợp nông dân điều chỉnh sản xuất theo chương trình của Nhà nước nhưng không thu được kết quả (ví dụ chương trình trồng cà phê ở miền núi phía Bắc) mà vẫn không nhận được đền bù của Nhà nước và nhiều trường hợp hỗ trợ của Nhà nước không đến được tay nông dân.
Đối với hình thức hỗ trợ gián tiếp thông qua các doanh nghiệp, hay các ngành, địa phương, hiệu quả mang lại cũng không cao. Đơn cử như việc thu mua tạm trữ lúa gạo cho nông dân, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về vốn, lãi suất cho các doanh nghiệp thu mua lương thực, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp không được mua thấp hơn giá sàn quy định. Mục đích của việc làm này nhằm giúp nông dân giảm bớt khó khăn trong tiêu thụ lúa gạo và bảo đảm sản xuất có lãi trên 30%. Nhưng việc thu mua lúa gạo của các doanh nghiệp đầu mối hiện nay đều thông qua hệ thống thương lái (chiếm trên 90%). Do vậy, thương lái không thể thu mua lúa của nông dân
theo giá sàn để rồi phải bán lại doanh nghiệp với giá sàn để chịu lỗ. Vì lẽ đó, thương lái phải ép giá nông dân bán lúa thấp hơn giá sàn quy định. Còn người nông dân cũng không thể không bán, vì việc thu mua lúa lâu nay đều lệ thuộc vào thương lái. Nếu muốn doanh nghiệp thu mua theo đúng giá sàn quy định, người nông dân phải tự chở lúa đến Công ty Lương thực. Điều đó sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng cao, lại mất nhiều thời gian, nên nông dân đành chấp nhận bán lúa cho thương lái. Vì vậy lợi ích mang lại cho nông dân nghèo rất ít ỏi. Rõ ràng, người trồng lúa Việt Nam trong suốt thời gian qua luôn bị xếp cuối bảng về lợi ích trong chuỗi giá trị sản xuất và kinh doanh lúa gạo. Một quốc gia xuất khẩu gạo vào hàng đầu thế giới lại có thể xếp lợi ích của nông dân, những chủ nhân đích thực của hạt gạo vào vị trí thứ yếu. Thậm chí, nông dân còn phải hứng chịu hầu hết các rủi ro của thị trường đến mức nản lòng với chính nghề trồng lúa đã tồn tại bao đời nay và mang lại nhiều lợi ích cho đất nước.
3.2.2.5. Bất cập của năng lực thể chế thực hiện chính sách đối với nông dân
Việc xây dựng hệ thống luật pháp thực hiện chính sách đối với nông dân còn hạn chế. Quá trình triển khai các chương trình việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và cung cấp các dịch vụ cơ bản trong nông thôn chưa được phối hợp một cách chặt chẽ, do đó hiệu quả chung của chính sách chưa tương xứng với kinh phí mà xã hội đầu tư cho các chương trình. Trình độ tổ chức, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ trong lĩnh vực chính sách đối với nông dân, nhất là cán bộ cấp huyện, xã chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Điều này cùng với cơ chế, chính sách tài chính và thu nhập hiện hành làm cho các chính sách đối với nông dân được triển khai một cách kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối với nông dân còn hạn chế. Việc xây dựng chính sách chính sách đối với nông dân nói riêng đang đứng trước mắt khó khăn là các nguồn số liệu thiếu liên tục và thống nhất. Hiện nay có rất nhiều nguồn số liệu được phát ra từ các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu... nhưng rất mâu thuẫn nhau. Do đó, khi phân tích, đánh giá thực trạng tình hình để hoạch định chính sách thường mang tính chủ quan, thiếu cơ sở phân tích khoa học, phát hiện các mối quan hệ nội tại thông qua các phương pháp phân tích hiện đại (xây dựng các mô hình, sử dụng các hàm nhiều biến, phân tích hồi quy...); phương pháp dự báo và tổ chức dự báo các vấn đề xã hội nói chung, nông thôn nói riêng, không được tiến hành ở cấp quốc gia và thường xuyên, do đó, thiếu cơ sở dữ liệu đầu vào để hoạch định chính sách cho sát với thực tiễn.
3.2.3. Nguyên nhân của hạn chế
3.2.3.1. Tiềm lực tài chính và năng lực hạn chế của bộ máy Nhà nước.
Từ thập kỉ 90 của thế kỉ thứ XX trở lại đây Nhà nước đã dồn đa phần nguồn lực cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, giảm đầu tư cho nông, lâm, thủy sản. Trong tổng đầu tư xã hội nói chung cũng như trong đầu tư từ NSNN nói riêng, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn thường chiếm tỉ trọng nhỏ, thậm chí có xu hướng giảm đi. Từ năm 2001 đến nay, tỷ lệ đầu tư vào nông, lâm, thủy sản từ NSNN giảm từ 10,7% năm 2001 xuống 8,6% năm 2008. Chi tiêu công cho nông nghiệp chỉ băng 1-1,5% GDP, mặc dù nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước.
Ngoài ra, để duy trì sức hút đầu tư, Nhà nước thi hành chính sách bình ổn giá lương thực thực phẩm ở mức thấp đã tạo cánh kéo bất lợi cho nông dân, nhất là khi giá vật tư nông nghiệp tăng nhanh hơn giá bán nông sản như năm 2008. Đáng lẽ Nhà nước phải bù đắp thu nhập cho nông dân bằng cách trợ cấp thu nhập trực tiếp hoặc mua nông sản viện trợ để duy trì giá cao thì trong những năm qua, do năng lực tài chính yếu kém, Nhà nước ta lại làm ngược lại, để bù tổn thất cho doanh nghiệp phi nông nghiệp và người tiêu dùng bằng cách buộc nông dân phải bán giá thấp mà không có trợ cấp. Chính sách chuyển thu nhập từ nông dân qua các nhóm dân cư khác là bất đắc dĩ trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa ở tất cả các nước, nhưng nếu kéo quá dài sẽ làm kiệt quệ nông dân và đào sâu chênh lệch mức sống ở nông thôn và thành thị.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta có xuất phát điểm thấp, lại chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh kéo dài đi đôi với các khó khăn của bản thân quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Chính vì luôn phải đối phó với các tình huống của nền kinh tế chưa phát triển nên các chính sách của Nhà nước chưa thể hoạch định một cách bài bản, hệ thống. Trong rất nhiều trường hợp, Nhà nước phải ưu tiên yêu cầu cấp bách hơn là đề ra một chính sách có thể áp dụng lâu dài. Mặt khác, do trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp nên thu nhập và tích lũy của hộ nông dân cũng thấp đã cản trở quá trình hiện đại hóa và chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa lớn. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, nhưng phải đầu tư cho nhiều dự án, chương trình mục tiêu khác nhau nên Nhà nước không thể hỗ trợ đủ mức tài chính cho nông dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Phân tích về các chính sách hỗ trợ nông dân cho thấy, phần lớn chính sách chỉ tập trung giải quyết khó khăn trước mắt, hay hỗ trợ theo kiểu “chữa cháy” chứ chưa thật sự bền vững.
Những năm gần đây dịch bệnh xuất hiện thường xuyên và phức tạp, khó chống đỡ, nhất là các dịch bệnh trên gia cầm, gia súc khiến các cấp chính quyền lao đao, ngân sách thâm hụt hơn nữa. Biến đổi khí hậu làm cho các quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi bị điều chỉnh sai lệch làm cho quá trình chỉ đạo của Nhà nước khó khăn, kinh phí dự phòng ngày càng đòi hỏi phải trích lập lớn. Ngoài ra, tình trạng trái đất nóng lên còn đe dọa gây ngập lụt nhiều nơi, gây sức ép lên kinh phí cho xây dựng hệ thống thủy lợi. Thiên tai xuất hiện với tần số lớn và mức thiệt hại nhiều hơn càng làm tăng thêm các khó khăn cho Nhà nước vốn dĩ đã bị quá tải bởi các nhiệm vụ chuyển đổi và cải cách. Trong khi đó, kinh nghiệm và kỹ năng đối phó với các biến đổi thất thường của thiên tai còn hạn chế càng làm cho chính sách của Nhà nước thiếu tính bài bản và độ sâu bền.
3.2.3.2. Biến động phức tạp của thị trường thế giới.
Mặc dù Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản mạnh, nhưng chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn gây nhiều bức xúc trong xã hội, cản trở nông sản Việt thâm nhập thị trường thế giới, khiến việc tiêu thụ nông sản bị ách tắc, giá xuất khẩu bị ép xuống thông qua những rào cản kỹ thuật và phòng vệ thương mại.
Sự dao động về giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới luôn ở mức độ cao và xảy ra thường xuyên, bởi nguyên nhân chủ yếu là sự bất ổn định của sản xuất nông nghiệp (sự phụ thuộc vào thiên nhiên). Các sản phẩm trồng trọt và sản phẩm thô có biên độ dao động cao hơn các sản phẩm chăn nuôi và sản phẩm chế biến. Trong hoàn cảnh nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nặng về các sản phẩm trồng trọt, xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, ít qua chế biến, sự tác động của tính chất giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới và các xu hướng thứ sinh đối với sản xuất các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có phần không thuận lợi. Xu hướng giảm giá diễn ra phổ biến ở hầu hết các mặt hàng nông sản chủ yếu của nước ta như lúa, gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều và một số mặt hàng khác đã gây ra tác động tiêu cực, đó là nông sản tồn đọng lớn, thu nhập của nông dân giảm tương đối, kéo theo giảm sức mua thị trường nông thôn, giảm khả năng đầu tư vốn của họ vào phát triển sản xuất nông sản. Ở tầm vĩ mô, chỉ số giá lương thực, thực phẩm giảm kéo theo xu hướng giảm sút của chỉ số giá và làm gia tăng tình trạng giảm phát của toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có những khoản hỗ trợ rất lớn khi rớt giá, thực thi các biện pháp điều tiết sản