Hỗ Trợ Đào Tạo Nghề Và Giải Quyết Việc Làm Cho Nông Dân 40546


và vùng nguyên liệu; chưa đặt lợi ích của người sản xuất hài hoà với lợi ích của doanh nghiệp; chưa tích cực đổi mới cơ chế tổ chức quản lý phù hợp với phương pháp làm ăn mới; chậm đổi mới công nghệ nên năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất còn nhiều hạn chế; thiếu cán bộ nông vụ, mạng lưới thu gom nông sản đến người nông dân dẫn tới việc thực hiện liên kết với nông dân còn nhiều khó khăn.

Trình độ sản xuất, quản lý của người nông dân vẫn mang tính tiểu nông, chưa đáp ứng kịp kiến thức theo yêu cầu sản xuất hàng hóa. Tiềm lực sản xuất, tiềm lực kinh tế của hộ nông dân còn thấp, thiếu thông tin thị trường, các kiến thức về pháp luật, trong khi thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức của nông dân. Các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu, trường đại học còn chưa thực sự gắn giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất; chưa có kế hoạch cụ thể gắn kết với doanh nghiệp, người sản xuất trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, mối liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp với các nhà khoa học còn lỏng lẻo.

Nhiều cơ chế chính sách trong Quyết định 80 không còn phù hợp với các quy

định hiện hành sau khi Việt Nam gia nhập WTO cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện

Trong Quyết định 80, nhiều chính sách có liên quan đến việc tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng không còn phù hợp với các quy định của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), như chính sách thuế, tín dụng, đầu tư, đất đai, xúc tiến thương mại, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật... cần được bãi bỏ và tiếp tục hướng dẫn những vấn đề phát sinh như: chế độ bảo hiểm, bảo lãnh hợp đồng; các hình thức mua bán hiện đại như thị trường giao dịch, quyền mua, quyền bán; thành lập hệ thống thông tin thị trường; công tác kiểm soát chất lượng, xuất xứ hàng nông sản.... Đối với các quy định về hợp đồng, mặc dù đã có các chế tài đủ mạnh nhưng vẫn còn khá chung chung, cần có những văn bản dưới luật để cụ thể hóa các chế tài xử lý tranh chấp vi phạm hợp đồng.

Chiến lược thị trường chưa được xây dựng trên thế chủ động. Chẳng hạn, việc chuyển hướng sang thị trường EU, Hoa Kỳ, châu Á khi gặp khó khăn do thị trường Đông Âu tan rã, hoặc do khủng hoảng tài chính, tiền tệ gây ra khó có thể coi là một chiến lược chủ động. Trong khi đó, nhiều thị trường gần như bị bỏ trống (châu Phi), thị trường truyền thống chưa được khôi phục (các nước SNG) hay chưa được khai thác tốt (Mỹ Latinh)… Điều đó không chỉ đặt xuất khẩu nông sản vào thế bị động về thị trường do quá lệ thuộc vào một khu vực thị trường, mà còn hạn chế cơ hội chủ


động vươn xa của hàng nông sản Việt Nam. Chúng ta cũng chưa hình thành chính sách xây dựng bạn hàng vững chắc, lâu dài với từng thị trường, nhất là các thị trường trọng điểm. Do đó, các bạn hàng lớn chưa có nhiều và không ổn định. Nhiều trường hợp phải xuẩt khẩu qua thị trường trung gian, làm giảm lợi ích, hạn chế việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản. Hơn nữa, chính sách xây dựng thị trường quốc tế hiện hành của Việt Nam chưa đảm bảo tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về giá trị xuất khẩu nhờ khai thác được lợi thế của từng khu vực thị trường mà vẫn thiên về ưu tiên mục tiêu gia tăng khối lượng, chỉ tìm cách mở rộng thị trường mà chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng chính sách thị trường trên cơ sở phân đoạn thị trường theo các tiêu chí khác nhau như khả năng thanh toán, nhu cầu giá rẻ, yêu cầu về chất lượng…

Kết cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn đơn điệu, thiếu linh hoạt, chưa thích ứng với những biến động của thị trường nông sản thế giới, sản phẩm chế biến sâu còn ít, chủ yếu là sản phẩm thô, nguyên liệu, sơ chế nên làm giảm giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam hiện vẫn là những mặt hàng sẵn có và sản phẩm có quy mô dễ khai thác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Việc cung cấp thông tin về thị trường đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời, chính xác, nhất là các dự báo dài hạn. Chẳng hạn, đầu năm 2009, Trung Quốc áp dụng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của WTO nhưng các doanh nghiệp Việt Nam không được biết, do đó hàng trăm tấn dưa hấu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bị ứ đọng ở cửa khẩu, gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhiều loại cao su của Việt Nam có chất lượng tốt nhưng vẫn phải bán thấp hơn giá thế giới do không có thông tin đầy đủ, chính xác.

Chưa có mạng lưới làm công tác xúc tiến thương mại sâu rộng ở các thị trường trên thế giới, chính sách xây dựng thương hiệu nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, người tiêu dùng thế giới dùng nông sản Việt Nam mang nhãn hiệu, thương hiệu nước khác mà họ rất ít hiểu biết về nông sản Việt Nam. Chính sách xúc tiến thương mại chưa đảm bảo cho nông sản Việt Nam chen chân được vào các “ngách” của thị trường, còn nhiều “khoảng trống” trên thị trường thế giới mà Việt Nam chưa có cơ hội lấp đầy. Chính sách xúc tiến thương mại cũng mới tập trung vào cầu xuất khẩu mà chưa chú trọng tới cung xuất khẩu, tức là chưa quan tâm đúng mức tới chất lượng nông sản, khả năng cung ứng với khối lượng và chất lượng ổn định của các doanh nghiệp.

Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 14

3.1.6. Hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân


3.1.6.1. Thực trạng hỗ trợ đào tạo đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân

Hiện nay, tỷ lệ lao động đang làm việc ở nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo nghề có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khóa X) đề ra: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước”. Chính vì thế, hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong những năm gần đây, nhờ nền kinh tế của nước ta liên tục tăng trưởng cao, cân đối thu chi NSNN bước đầu đã có những chuyển biến theo hướng tích cực, vì vậy Nhà nước có điều kiện thực hiện một số chính sách xã hội hỗ trợ khu vực nông thôn, nhất là những xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều chủ trương, chính sách và chương trình hành động về hỗ trợ việc làm và đào tạo nghề cho nông dân đã và đang được thực hiện.

Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong Chương trình hành động của Chính phủ là: Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở.

Một số mô hình dạy nghề đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Kỹ năng nghề của người nông dân đã được nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và


Việt Nam; về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo. Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc hỗ trợ giáo dục và đào tạo nghề miễn phí, trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn đã nâng lên. Số liệu của Điều tra lao động và việc làm 2011 cho thấy, tỷ lệ 92,5% số người từ 15 tuổi trở nên ở nông thôn biết chữ so với tỷ lệ 97, 3% ở thành phố là một con số đáng tự hào. Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đã qua đào tạo năm 2011 chiếm tỷ lệ 9% (năm 2001 là 6, 2%).

Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, đến năm 2015, 70% số lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này đạt được là 80% vào những năm sau đó. Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi có Quyết định số 1956 QĐ-TTg, tất cả các địa phương trong cả nước đã đồng loạt tổ chức điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực hiện từ các thôn, bản, xóm, ấp, tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp thực tiễn của người dân nông thôn. Tính đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc điều tra, khảo sát nhu cầu và có 33 tỉnh, thành phố đã tổng hợp số liệu điều tra. Theo thống kê sơ bộ, hiện có khoảng 12% - 15% số lao động nông thôn có nhu cầu được đào tạo nghề với trên 600 nghề khác nhau, trong đó nhóm nghề nông nghiệp chiếm trên 42%. Đây là căn cứ rất quan trọng để các cơ sở dạy nghề trong cả nước tổ chức xây dựng chương trình và mở các khóa dạy nghề phù hợp. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi được học nghề. Sau 3 năm triển thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đã tổ chức dạy nghề cho 1.088.393 lao động nông thôn theo chính sách của Đề án (trong đó nghề nông nghiệp: 480.897 người, chiếm 44,2 % và nghề phi nông nghiệp:


607.496 người, chiếm 55,8%), đạt 77,74% kế hoạch và bằng 16,64% kế hoạch 11 năm thực hiện Đề án. Đã có 1.042.059 người học nghề xong, trong đó 822.460 người có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ có năng suất, thu nhập cao hơn, đạt 78,9%; 55.288 người thuộc hộ nghèo, sau học nghề có việc làm, thu nhập đã thoát nghèo, chiếm 44,1% so với số người nghèo tham gia học nghề; 88.222 người sau học nghề có việc làm, thu nhập cao hơn mức thu nhập trung bình của các hộ dân trong vùng (hộ có thu nhập khá), chiếm 10,7% so với số người có việc làm [66].

Mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, số lao động ở nông thôn tăng lên, nhờ các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm của Nhà nước và nỗ lực tạo việc làm của nông dân, tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn đã tăng lên. Nếu như tỷ lệ này của năm 2000 là 74,16% thì năm 2006 đã tăng lên 79%. Nhờ đó thu nhập của hộ gia đình ở nông thôn được cải thiện. Năm 2007, kinh tế phi nông nghiệp đã tạo ra hơn 60% giá trị gia tăng ở nông thôn. Hiện nay, trên địa bàn nông thôn đã có hơn 32% hộ gia đình có thu nhập chính từ các ngành phi nông nghiệp. Nông thôn Việt Nam đã khôi phục và phát triển mới được 2.971 làng nghề, thu hút 1.423 hộ với hơn 11 triệu lao động. Ngoài ra các loại hình kinh tế trang trại và hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới cũng phát triển khá nhanh, tạo thêm hàng nghìn chỗ làm việc mới.

3.1.6.2. Những hạn chế trong hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho nông dân

Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa sát với tình hình phát triển đất nước cũng như từng địa phương và đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh có hiệu quả thiết thực

Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã có những chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và chưa gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều trường hợp doanh nghiệp phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Một số địa phương, nhu cầu về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong khi ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông nghiệp. Có tỉnh, hệ thống các khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân


lành nghề về công nghiệp nặng tăng nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh, hoặc nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Nhiều lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Do đó, thời gian tới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh để có hiệu quả thiết thực.

Đại bộ phận lao động nông thôn chưa có nhận thức đúng về đào tạo nghề, học nghề. Một phần do tập quán và thói quen canh tác, nông dân tiến hành sản xuất nông nghiệp theo kinh nghiệm, nông dân coi sản xuất nông nghiệp nói riêng và các hoạt động khác trong khu vực nông thôn nói chung là công việc giản đơn không phải học. Lao động trong các ngành sản xuất nông, lâm, thủy sản vẫn chủ yếu là lao động thủ công theo kiểu cha truyền con nối từ đời này sang đời khác. Tuy công nghiệp và dịch vụ đã được phát triển ở nông thôn giúp thu hút và giải quyết việc làm cho một số nông dân, song kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó nông dân nhận thức về việc học tập để sản xuất chưa thực sự cần cho bản thân họ. Nhu cầu học tập của họ được dồn vào cho thế hệ con cháu với mục đích là tìm lối thoát khỏi nghề nông và cuộc sống ở nông thôn. Trên thực tế chúng ta thiếu chiến lược, thiếu quy hoạch và đặc biệt là thiếu những chính sách và giải pháp hữu hiệu để giải quyết một cách bài bản vấn đề này.

Quy mô và chất lượng của công tác dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho nông dân còn nhiều hạn chế so với nhu cầu; phương thức tổ chức hoạt động còn đơn điệu, chưa có nhiều hình thức phù hợp với từng địa bàn, khu vực và nhóm đối tượng. Nguyên nhân của tình trạng này là do cơ sở vật chất và nguồn nhân lực còn yếu; kinh phí phục vụ dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho nông dân thiếu, có nơi hầu như chưa có. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên chưa đạt tiêu chuẩn dẫn đến tình trạng ở một số nơi, công tác này chỉ dừng ở mức độ vận động chứ chưa thực sự tạo nghề. Ngay cả tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập vẫn còn thiếu. Ngoài một số giáo trình dạy nghề ngắn hạn do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, sở Lao động - Thương binh và Xã hội một số địa phương tự xây dựng, đa số các đơn vị chưa xây dựng được giáo trình chuẩn. Hơn nữa,


tại nhiều địa phương, chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm hoặc tìm nguồn hỗ trợ tạo điều kiện cho nông dân được học nghề một cách chính quy.

3.2- ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN SAU GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

3.2.1. Những kết quả đạt được

3.2.1.1. Các hỗ trợ đối với nông dân góp phần phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân, xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại

Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính sách đúng đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu đạt được của chính sách hỗ trợ đối với nông dân bao gồm cả về đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất trong nông nghiệp diễn ra ổn định cả về nâng cao năng lực các yếu tố đầu vào của sản xuất và năng suất, chất lượng nông sản đầu ra. Từ chỗ là một nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngoài gạo, Việt Nam còn chiếm vị thế cao trong số các nước xuất khẩu về cà phê, cao su, hạt điều. Giá trị xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như thủy sản, chế biến gỗ cũng ngày càng cao và trở thành các sản phẩm chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, gia tăng sản phẩm có giá trị kinh tế, có lợi thế cạnh tranh. Trong nông nghiệp đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn được tăng cường. Chẳng hạn, công tác thủy lợi đã được thực hiện hết sức mạnh mẽ, đến nay 94% diện tích lúa, 41% diện tích hoa màu trong cả nước được tưới tiêu. Việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp triển khai khá rộng rãi (70% diện tích lúa được sử dụng máy móc). Công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học được ứng dụng góp phần tăng chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tỷ trọng sản xuất nông nghiệp tuy giảm đi trong cơ cấu kinh tế, song giá trị tuyệt đối ngày càng tăng và đóng góp 20% GDP cho đất nước... Sự phát triển trong nông nghiệp thực sự là cơ sở quan trọng tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đại bộ phận nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại hơn.


3.2.1.2. Hỗ trợ đối với nông dân nhìn chung đã phù hợp với nguyện vọng của nông dân

Ở Việt Nam, thu nhập, đời sống, vị thế chính trị của người nông dân đều không bằng những nhóm người khác. Nông dân, nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của đất nước. Thế nhưng, dường như ngày nay họ là những người ít được hưởng lợi nhất trong công cuộc đổi mới của đất nước. Có thể nói rằng, các hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân thời gian qua nhận được sự đồng tình rất cao của xã hội cũng như của chính bản thân người nông dân. Các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước, một mặt, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, mặt khác, đã dần xóa bỏ được tính chất bao cấp phi hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, hướng đến tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể đầu tư vào nông nghiệp, xích lại gần môi trường đầu tư của nông nghiệp, nông thôn với các ngành, lĩnh vực khác sao cho nông dân có thể có vị thế bình đẳng hơn trong giao dịch hàng hóa trên thị trường. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đều đặt mục tiêu trọng yếu là bảo vệ lợi ích của nông dân. Chính sách giao đất cho hộ gia đình nông dân vừa đảm bảo chế độ sở hữu toàn dân, vừa tạo quyền tự chủ cho nông dân đã không chỉ đem lại động lực cho phát triển nông nghiệp mà còn giúp nông dân tiếp cận và sử dụng hiệu quả đất đai theo cơ chế thị trường. Nhờ xử lý đúng chính sách đất đai, Nhà nước ta vẫn duy trì được sự kiểm soát đối với nguồn tài nguyên quan trọng này, góp phần ổn định xã hội nông thôn, đồng thời kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển đạt thành tích ấn tượng. Hỗ trợ về tín dụng đã định hướng các NHTM quốc doanh hỗ trợ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, nhất là hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ những lúc nông dân gặp khó khăn, xóa bỏ sự can thiệp hành chính theo hướng phân phối lại trong cấp tín dụng cho nông nghiệp. Phương thức hỗ trợ này tỏ ra hiệu quả hơn, kích thích tính sáng tạo, tự chủ trong sản xuất kinh doanh của hộ nông dân, đồng thời vẫn đảm bảo mức hỗ trợ cần thiết giúp nông dân vượt qua giới hạn tích lũy thấp. Các chính sách tài trợ giống, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y cho các vùng khó khăn, nhất là Nhà nước đã kịp thời xóa nợ cho nông dân vùng lũ, vùng gặp thiên tai, hỗ trợ nông dân bù đắp tổn thất khi gặp dịch bệnh, hỗ trợ áp dụng kỹ thuật mới... đã thể hiện sự quan tâm, chia sẻ của Nhà nước với nông dân. Chính sách đào tạo, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách khuyến nông đã đặt người nông dân vào vị thế tự do lựa chọn, tự định đoạt hoạt động sản xuất và đời sống của mình, Nhà nước chỉ hỗ trợ ở những khâu nông dân yếu thế nhằm tạo vị thế bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực.

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí