sống của nông dân, Chính vì vậy không nên có tâm lý ỷ lại hoặc có hành vi gian dối
để kiếm lời từ chương trình đầy ý nghĩa này.
Thứ tư, đảm bảo nông dân thực sự có lợi ích khi thực hiện chính sách tạm trữ lúa gạo
Như đã phân tích ở chương 3, hỗ trợ nông dân tạm trữ lúa gạo mà Nhà nước đang thực hiện không hoàn toàn đem lại lợi ích cho người dân trồng lúa như mục đích của nó. Vì vậy, để chính sách hỗ trợ này đúng là chính sách vì nông dân, theo chúng tôi cần thực hiện:
Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp chế biến lớn, hiện đại, đóng vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị sản phẩm lúa gạo, từ trồng trọt qua thu mua chế biến cho tới tiêu thụ và xuất khẩu. Nhà nước cần hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp này, để họ trở thành những doanh nghiệp đầu đàn trong ngành công nghiệp lúa gạo. Để có nhà máy lớn chúng ta cũng có thể gom các nhà chế biến nhỏ hiện nay lại với nhau thành một công ty cổ phần trang bị máy móc hiện đại, xây kho có thể dự trữ thóc 6 tháng, 1 năm phục vụ cho chế biến.
Tạo một mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa các doanh nghiệp chế biến gạo với nông dân mới giải quyết được cơ bản khâu tiêu thụ thóc gạo cho nông dân. Các nhà máy chế biến lớn sẽ hợp đồng với nông dân về sản xuất, tiêu thụ và họ cũng định hướng cho nông dân trong sản xuất. Có thể nhân rộng mô hình của Công ty Bảo vệ thực vật An Giang bán cổ phiếu cho nông dân và nông dân trở thành cổ đông của công ty, tức đã từ thân phận làm thuê bước lên vị trí làm chủ. Khi đó, những cổ đông - nông dân này đến vụ thu hoạch có thể bán lúa lại cho chính công ty của mình, cuối kỳ - cuối quý tiền lãi có được công ty cũng sẽ chia lại cho nông dân, không mất đi đâu cả. Từ đó sẽ không còn cảnh bán lúa non, bị thương lái ép giá như lâu nay.
Tạo một sân chơi bình đẳng trong thực hiện thu mua tạm trữ lúa gạo cũng như trong xuất khẩu gạo, hạn chế vai trò độc quyền của VFA. VFA về danh nghĩa gắn với thị trường nhưng lợi ích kinh tế của họ rất lớn, có quá nhiều lợi thế trong việc đề xuất chính sách. Việc mua gạo tạm trữ là do VFA đề xuất với Chính phủ, đối tượng được quyền cầm tiền thu mua cũng do họ phân phối chỉ tiêu, giá mua lúa của nông dân và giá sàn xuất khẩu cũng là do VFA quyết định. Tình trạng độc quyền xuất khẩu gạo của VFA có thể làm thị trường bị bóp méo, làm mất đi vai trò, sự sáng tạo của doanh
nghiệp tư nhân (hiện nay, Tổng công ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty Lương thực miền Nam thuộc VFA chiếm tới hơn 50% thị phần xuất khẩu gạo). Do vậy, cần mở rộng đối tượng tham gia tạm trữ và tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu gạo thông qua việc tăng lượng doanh nghiệp bên ngoài VFA nhằm tăng nguồn lực cho thu mua lúa gạo.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Hỗ Trợ Đối Với Nông Dân Về Cơ Bản Là Phù Hợp Với Cam Kết Gia Nhập Wto
- Chính Sách Hỗ Trợ Nông Dân Trong Điều Kiện Hội Nhập Wto Là Lĩnh Vực Mới Đối Với Nhà Nước Việt Nam
- Về Hỗ Trợ Hông Dân Tiếp Cận Vốn Tín Dụng Thuận Lợi
- Hỗ Trợ Nông Dân Giảm Chi Phí Vật Tư Nông Nghiệp
- Hỗ Trợ Nông Dân Tham Gia Trực Tiếp Hơn Vào Hệ Thống Tiêu Thụ Nông Sản
- Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 21
Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.
Tổ chức các hộ nông dân lại thành các hợp tác xã hoặc tổ nhóm gắn với từng vùng chuyên canh. Các doanh nghiệp lớn thay vì ngồi thu mua sản phẩm lúa gạo từ các tư thương thì phải xây dựng kho, sân phơi, cung cấp vật tư cho các tổ chức nông dân… theo từng vùng chuyên canh. Chính phủ sẽ căn cứ vào sự bắt tay hợp tác giữa người nông dân và doanh nghiệp mà hỗ trợ chính sách. Hoặc là khi chưa có sự hợp tác này, Nhà nước phải hỗ trợ bằng cách chuyển số vốn tạm trữ sang ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ dãn nợ cho dân trong vòng 3 tháng, đồng thời hỗ trợ lãi suất giống như áp dụng cho doanh nghiệp thu mua lúa gạo. Không còn áp lực trả nợ, nông dân sẽ tự tạm trữ chờ giá lúa lên.
4.2.1.3. Về hỗ trợ nông dân ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lĩnh vực nông nghiệp
Nông nghiệp nước ta không thể phát triển và hội nhập WTO được nếu như thiếu vai trò của KH - CN hiện đại. Đó là lí do vì sao nhà nông phải gắn bó với nhà khoa học, sản xuất nông nghiệp phải gắn với công tác nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của KH - CN. Trong những năm gần đây, hệ thống các viện, các trung tâm nghiên cứu phục vụ cho ngành nông nghiệp không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, việc mở rộng này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nông nghiệp nước ta trong xu thế hội nhập WTO. Giá trị nông sản hiện nay, không chỉ do người lao động tạo ra mà phần lớn bị chi phối bởi hàm lượng KH - CN trong nông sản. Hàm lượng KH - CN trong sản phẩm không chỉ để khẳng định thương hiệu của mặt hàng mà còn là tiêu chí để xác định trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Ngoài ra, còn một lĩnh vực rất quan trọng mà Nhà nước phải làm, đó là đầu tư cho nghiên cứu để cải tạo chất lượng giống cây trồng. Hiện nay, dù thu nhập của nông dân Việt Nam rất thấp nhưng không ít sản phẩm làm ra lại không thể cạnh tranh về giá với nông sản đến từ những nước phát triển. Nghịch lý này một phần là do chất lượng giống kém nên năng suất thu hoạch thấp.
Sự liên kết giữa bốn nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Trong đó, mối quan hệ giữa nhà nông và nhà khoa học được coi là mối quan hệ nền tảng, nòng cốt. Chính vì vậy muốn củng cố mối quan hệ này và nâng cao hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng KH - CN trong ngành nông nghiệp, cần chú ý những điểm sau:
Một là, Nhà nước đầu tư nhiều hơn cho các trường và các viện, nhất là những cơ sở có vai trò đầu tàu trong từng vùng hay từng lĩnh vực để nó làm tròn sứ mệnh và nhiệm vụ được giao, đặc biệt là đầu tư các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy và đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học có trình độ cao, khoảng năm 2015 một số trường và viện của chúng ta trong lĩnh vực này đạt được trình độ chung của các trường và viện của các nước phát triển trong khu vực. Khuyến khích các trường đại học, các viện nghiên cứu và các nhà khoa học tạo ra ngày càng nhiều các sản phẩm KH - CN có chất lượng cao phục vụ nông nghiệp.
Hai là, đầu tư theo hướng tập trung, đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm, chuyển giao với các trang thiết bị nghiên cứu, chuyển giao tiên tiến, hiện đại. Đến năm 2020, có ít nhất 10 tổ chức KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Lĩnh vực ưu tiên đầu tư nghiên cứu, chuyển giao tập trung vào ứng dụng công nghệ sinh học để tạo giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản chất lượng cao. Công nghệ sinh học không chỉ là hướng mũi nhọn của nông nghiệp trong xu thế hội nhập, nó còn là điều kiện cần thiết nhất để đưa nông nghiệp Việt Nam hướng tới hội nhập. Trong thời gian tới công nghệ sinh học cần tiếp tục tạo ra những giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, có khả năng đề kháng tốt trước dịch bệnh. Công nghệ sinh học tập trung giải quyết vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ có công nghệ sinh học mới giải quyết tận gốc vấn đề này. Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vi sinh, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ tự nhiên, bảo quản thực phẩm bằng thuốc vi sinh không gây hại cho người tiêu dùng. Công nghệ sinh học góp phần cải thiện môi trường nông nghiệp, nông thôn. Có như vậy mới tạo ra một nền nông nghiệp sạch, bền vững. Đặc biệt, ưu tiên đầu tư cho vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa trọng điểm, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có nguy cơ xảy ra thiên tai, dịch bệnh.
Ba là, có chính sách, cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông sản tham gia nghiên cứu, chuyển giao KH - CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn như là một sự đầu tư trở lại của công nghiệp trong lĩnh vực này đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khuyến khích những nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, phát minh, sáng chế đáp ứng nhu cầu thực tiễn của những “kỹ sư nông dân”. Có chính sách ưu đãi để thu hút nhiều trí thức trẻ về công tác và lập nghiệp ở nông thôn, nhất là những trí thức trẻ thuộc các ngành nông - lâm nghiệp, thủy hải sản, nghề muối, giáo dục, y tế, văn hóa và các vùng sâu, vùng xã, các vùng có nhiều khó khăn. Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp KH-CN, chú trọng kết hợp công nghệ cao với công nghệ truyền thống đã được hình thành. Hằng năm, các ngành chức năng và các đoàn thể cần phối hợp tổ chức các hội thi tìm hiểu kiến thức KH-CN, hội thi sáng tạo kỹ thuật nhằm khuyến khích các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các hoạt động KH-CN. Thực tế đã chứng minh rằng, không phải chỉ có các nhà khoa học mới có khả năng nghiên cứu KH-CN mà ngay cả người dân bình thường vẫn giàu khả năng tư duy và những sản phẩm do họ phát minh, sáng chế có giá trị thực tiễn cao.
Bốn là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và có chế độ đãi ngộ tốt đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu. Nước ta hiện nay rất cần đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu về số lượng và chất lượng. Chúng ta thiếu cán bộ nghiên cứu ngành nông nghiệp ở khu vực nông thôn và miền núi rất nhiều. Một phần vì công tác đào tạo chưa đáp ứng, mặt khác do những cán bộ nghiên cứu được đào tạo ra nhưng không đến những nơi đó làm việc. Ngoài ra, do khu vực nông thôn và miền núi còn thiếu cơ sở nghiên cứu và các trang thiết bị cần thiết nên không chỉ không thu hút được người tài mà còn gây lãng phí nguồn lực quan trọng này. Về chất lượng, nông nghiệp nước ta thiếu đội ngũ những nhà khoa học thật sự giỏi về chuyên môn và niềm say mê nghiên cứu. Phần lớn các kỹ sư vừa ra trường phải mất một thời gian và một chi phí đào tạo tiếp theo nhất định mới có thể bắt tay vào công tác nghiên cứu. Nhiều nhà khoa học do thiếu những sự đồng thuận cần thiết đã không phục vụ cho các viện nghiên cứu mà phục vụ cho các đơn vị khác.
Năm là, rút ngắn thời gian từ thời điểm phát minh đến thời điểm ứng dụng và ứng dụng đồng loạt. Làm được điều này sẽ tránh được những lãng phí không cần thiết, mặt
khác tận dụng được lợi thế của một phát minh mới khi chưa bị phát minh mới hơn thay thế. Khắc phục được sự hao mòn vô hình trong sản xuất nông nghiệp. Khi ứng dụng thấy hiệu quả thì nên nhân rộng ra trên quy mô lớn.
Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý KH - CN trong nông nghiệp
Chuyển từ quản lý theo nhiệm vụ KH - CN sang khoán, đặt hàng sản phẩm khoa học công nghệ. Giảm bớt thủ tục hành chính, quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra của nhiệm vụ nghiên cứu; tăng cường cơ chế đặt hàng, khoán sản phẩm. Trao quyền tự chủ nhiều hơn, mạnh hơn nữa cho các trường đại học và các viện nghiên cứu thuộc khu vực tam nông. Nhà nước cần có thái độ dứt khoát, rõ ràng trong yêu cầu đối với các trường và các viện cũng như bảo đảm cho họ được những vấn đề gì. Trên cơ sở đó giao cho các trường và các viện tự quyết định toàn bộ các hoạt động của mình, từ hướng đào tạo và nghiên cứu, đội ngũ cán bộ, lương bổng, đối nội và đối ngoại. Khi Nhà nước có những yêu cầu đào tạo và nghiên cứu đặc biệt thì tiến hành đặt hàng cho các trường, các viện, hoặc thông qua con đường đấu thầu công khai (tất nhiên các trường và các viện phải có trách nhiệm bảo tồn và phát triển các cơ sở vật chất được Nhà nước trang bị và có trách nhiệm đóng góp theo các qui định của pháp luật).
Phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các bộ, ngành tránh tình trạng nhiều đề tài, dự án chồng chéo, không mang lại hiệu quả cao. Đây là điều rất quan trọng, bởi như thế sẽ tránh được sự lãng phí trong nghiên cứu, mới khai thác được hết các trang thiết bị sẵn có và mới sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, từ đó mới có điều kiện giải quyết những vấn đề khoa học lớn do sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn và nông dân đặt ra.
Các trường và các viện cũng phải chủ động xây dựng cơ chế phối hợp trong nghiên cứu và chuyển giao các kết quả nghiên cứu với các doanh nghiệp, làm sao cho việc đến với nhau trở thành nhu cầu không thể thiếu được của mỗi bên. Đây là việc mà các trường, các viện và các doanh nghiệp phải chủ động, không nên chờ đợi Nhà nước. Một khi các trường và các viện được tự chủ thực sự, họ sẽ có nhiều giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các cơ sở vật chất - kỹ thuật được trang bị, cũng như huy động và khích lệ được đội ngũ các nhà khoa học của đơn vị làm tốt công tác nghiên cứu khoa học, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp
Hiện nay, nhiều nước đã đạt được những thành tựu nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng vượt trội có thể đem lại năng suất và hiệu quả cao trong kinh doanh nông nghiệp. Nhà nước có thể tranh thủ sự hợp tác với các nước để tạo dựng con đường ngắn nhất đến vị thế làm chủ được các thành tựu khoa học đó. Có nhiều phương pháp để đạt được mục tiêu:
Nhà nước có chiến lược và mục tiêu rõ ràng trong đề xuất và tranh thủ sự chuyển giao tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, kêu gọi hỗ trợ về nguồn lực, về tư vấn hoạch định chiến lược, phương pháp triển khai, giám sát đánh giá ứng dụng KH - CN trong nông nghiệp. Nhiều tổ chức kinh tế và nghiên cứu quốc tế về nông nghiệp có thể hỗ trợ nông dân nước ta về phương diện này, nhất là dưới khía cạnh xóa đói, giảm nghèo cho nông dân.
Xây dựng các chương trình hợp tác với các tổ chức nông nghiệp quốc tế trong việc nâng cao năng lực khuyến nông và hỗ trợ nông dân xóa đói giảm nghèo thông qua hoạt động khuyến nông. Tích cực tổ chức các diễn đàn hợp tác, hội thảo trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, hội chợ, triển lãm quốc tế, liên kết đào tạo, huấn luyện về lĩnh vực khoa học nông nghiệp với các nước trong khu vực và thế giới.
Mở rộng các tổ chức phối hợp với một số tổ chức phi chính phủ để nghiên cứu, nhân rộng và phổ cập một số phương pháp cánh tác, nghiên cứu một số giống cây con hoặc xây dựng các quy trình GAP cho các loại cây, con thích hợp với từng vùng, trong đó chú trọng các hình thức hợp tác hiệu quả như hình thức xây dựng mô hình mẫu có sự tham gia của nông dân, hình thức hợp tác hỗ trợ nông dân lập kế hoạch ứng dụng thành tựu KH - CN từ cộng đồng...
Kêu gọi và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ODA để tăng năng lực nghiên cứu và triển khai các thành tựu KH - CN trong nông nghiệp, nhất là tạo điều kiện cho công tác khuyến nông, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế của ngành nông nghiệp, phát triển kỹ năng lao động sáng tạo cho nông dân, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển nông nghiệp bền vững.
Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông
Đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, công tác khuyến nông có vai trò đặc biệt quan trọng. Khuyến nông là cầu nối của nông dân với KH - CN, nó giúp nông dân tiếp cận với KH - CN hiện đại. Khuyến nông giúp người nông dân mở rộng giao lưu để có thể học tập kiến thức, kinh nghiệm của nhau. Nông dân thông qua khuyến nông không chỉ tiếp cận với KH - CN hiện đại mà còn được tiếp cận với đội ngũ những nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường công tác khuyến nông nhằm phục vụ mục dích nâng cao hiệu quả sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tăng cường vai trò thực sự của nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau khi gia nhập WTO với nhiều cơ hội, thách thức mới. Những biện pháp cụ thể thúc đẩy hoạt động của công tác khuyến nông đạt hiệu quả:
- Nâng cao được nhận thức hiểu biết của người nông dân về công nghệ, kỹ thuật mới, kinh nghiệm trong sản xuất, bảo quản, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp và các kiến thức, thông tin về các mặt quản lý, kinh tế – xã hội khác, để cải thiện đời sống nông dân về vật chất, tinh thần nhằm phátt triển bền vững nông nghiệp và nông thôn;
- Giúp đỡ, hỗ trợ các tổ chức khuyến nông các cấp, các tổ chức liên quan về thu nhận, lưu giữ, xử lý thông tin, liên kết chặt chẽ hơn giữa tổ chức thực hiện truyền thông khuyến nông với các tổ chức nói trên, giữa họ với nhau và với nông dân;
- Nâng cao kỹ năng truyền thông; kỹ năng nói, viết, thuyết phục vận động, quan hệ công chúng, cách tiếp cận với giới báo chí để truyền thông,… cho cán bộ khuyến nông và cho chính những người nông dân;
- Góp phần thực hiện tốt chương trình khuyến nông địa phương, tạo diễn đàn trao đổi học tập giữa nông dân và các bên liên quan. Tạo thói quen cho nông dân tìm hiểu và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ qua phương tiện truyền thông đại chúng (báo, đài, quảng cáo, sách, quan hệ công chúng, Internet, báo mạng,…) và truyền thông gián tiếp;
- Đa dạng hóa các hình thức khuyến nông, chuyển giao công nghệ cho nông dân và dân cư nông thôn. Kinh nghiệm ở các nước phát triển và thực tiễn nước ta cho thấy, có thể vận dụng các kênh sau đây để chuyển giao công nghệ cho nông dân: từ hệ thống khuyến nông của Nhà nước; từ hệ thống các cơ sở nghiên cứu như viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học; từ các tổng công ty, công ty theo ngành hàng (Tổng
công ty mía đường Lam Sơn, Tổng công ty Chè…); từ các nhà đầu tư, dự án có vốn
đầu tư nước ngoài như các chương trình Sida, Oxfam…
- Hoạt động truyền thông cũng phải lồng ghép hoặc đi sâu riêng vào chủ đề liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn và WTO ở những tầm lớn nhưng nông dân cũng phải biết (chủ trương, chiến lược của Đảng, Nhà nước ta về tam nông, các quy định của WTO tác động thế nào đến nông dân Việt Nam; cung cách và phương hướng sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, cạnh tranh,...)
Công việc truyền thông đối với khuyến nông cũng có vai trò rất quan trọng. Bởi hiện nay là thành viên của WTO, không thể hội nhập mà không hiểu rõ các quy định, cam kết, luật lệ, tiêu chuẩn liên quan đến nông nghiệp, không thể không biết quảng bá thương hiệu các nông phẩm của Việt Nam,... Sách báo tuy nhiều nhưng chưa phát huy hết hiệu quả truyền thông về tam nông, đời sống nông dân nhiều vùng còn khó khăn; khoảng cách giữa đô thị và nông thôn ngày càng xa, áp lực di dân về đô thị vẫn rất cao; hiểu biết của nhà chức trách, nông dân, doanh nghiệp về nghĩa vụ, thời cơ, thách thức khi Việt Nam tham gia WTO vẫn chưa đầy đủ, hệ thống,…
Những thiếu sót này phải sớm được khắc phục bằng nhiều giải pháp, song trước hết vẫn cần phương tiện truyền thông phát huy sức mạnh của mình, cũng như kết hợp truyền thông với lực lượng khuyến nông mới có tác dụng nhanh, sâu rộng tới mọi người nông dân.
4.2.1.4. Hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
Trong qui định của WTO, các chi tiêu của Chính phủ đối với cơ sở hạ tầng nông thôn được coi là “hộp xanh” nên không có bất kỳ một giới hạn nào đối với các quốc gia thành viên về mức độ chi tiêu.
Thứ nhất, tăng cường NSNN phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
đồng thời có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư
- Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tăng cường mạnh mẽ đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Đồng thời với “đầu tư mồi” của NSNN, cần phải