Về Hỗ Trợ Hông Dân Tiếp Cận Vốn Tín Dụng Thuận Lợi


tầng lớp “địa chủ” mới và “tá điền” mới ở nông thôn vì ta có hệ thống chính trị hoạt động mạnh ở các cấp. Chúng ta có nhiều chế tài khác để chặn được tình trạng tiêu cực này như đánh thuế cao vào người có nhiều đất nhưng không trực tiếp sản xuất; tịch thu, sung công đất khi có hành vi phát canh thu tô. Điều quan trọng là chính quyền địa phương phải quyết tâm ngăn chặn việc hình thành tầng lớp địa chủ mới. Trong thời đại công nghiệp hiện nay, nếu địa chủ mới có hình thành thì cũng sẽ núp dưới dạng chủ một doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân.

- Về thời hạn giao đất 50 năm cũng cần làm rõ vùng nông nghiệp nào có tính chiến lược quốc gia, an ninh lương thực, thì nên giao lâu dài. Những đối tượng thực sự là nông dân trực canh và sử dụng đất hiệu quả nên mạnh dạn giao đất thời hạn lâu dài cho họ. Để khuyến khích sản xuất hàng hóa, nên nghiên cứu từng vùng, quy mô thế nào thì được giao 50 năm, từ đó thúc đẩy tập trung ruộng đất. Cần gắn chủ trương này với khuyến khích tập trung ruộng đất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững sản xuất nông nghiệp. Về nguyên tắc, giao đất càng dài thì sự ổn định hiệu quả của đầu tư nông nghiệp càng cao, cả về hạ tầng thủy lợi, điện, đường, đầu tư sản xuất và nhà đầu tư sẽ càng yên tâm đầu tư. Tuy nhiên, phải quản lý chặt, tạo công bằng trong sử dụng đất. Việc mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cũng phải tính toán nhằm tạo công bằng trong sử dụng đất đai, tránh tình trạng người cần thì không có, người có lại không cần. Đối với trường hợp có đất nhưng không sử dụng hoặc có đất nhưng cho thuê, phải có chính sách nhất định để xử lý nhằm tạo công bằng trong đất đai.

- Coi trọng lợi ích nông dân trong đền bù thu hồi đất. Thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đáp ứng nhu cầu đô thị hóa diễn ra là điều tất yếu của quá trình phát triển. Tuy nhiên, cần bảo đảm lợi ích các bên, đặc biệt lợi ích của người dân bị thu hồi đất, bảo đảm cho những người bị thu hồi đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất. Nên tính toán theo hướng, khi Nhà nước thu hồi đất thì người nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Mức bồi thường cho giải tỏa mặt bằng được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Với người dân nông thôn, cần tính toán đầy đủ, bên cạnh tiền bồi thường về sử dụng đất đai cần có tiền bồi thường về hoa màu, tài sản trên đất. Trong đền bù đất đai, cần thực hiện nhiều biện pháp để người dân cảm thấy


được tôn trọng và được lợi khi họ phải nhường đất cho các dự án của Chính phủ. Trong suốt quá trình thu hồi đất, người dân phải có quyền và nghĩa vụ “tương tác” với chính quyền địa phương, thông qua đó giám sát những người thực thi quá trình thẩm định giá, đền bù, tái định cư.

- Tính giá đất theo giá thị trường. Hiện nay, vẫn còn sự khác biệt lớn giữa “giá đất do Nhà nước quy định” với “giá thị trường” - đây là nguyên nhân gây ra những trở ngại lớn trên thị trường đất đai. Hệ thống hai mức giá này có thể đem đến những giá trị và lợi ích lớn cho các doanh nghiệp xây dựng phát triển bất động sản (thường là doanh nghiệp nhà nước), nhà đầu tư và nhà đầu cơ. Ngoài ra, các quyết định phân bổ, các giao dịch liên doanh, thuế phí đầu tư thường dựa trên giá trị đất đã bị giảm giá một cách giả tạo; điều này có nghĩa là Chính phủ đang gây thiệt hại cho lợi ích của người dân bằng cách hạ thấp giá trị của một trong những tài sản quý giá nhất thuộc sở hữu của người dân.

Thứ hai, hoàn thiện cơ sở lý luận, mô hình thực tiễn và cơ chế nông dân góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất được làm việc tại nơi góp vốn

Mục tiêu của cách làm này là đảm bảo cho những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất tuy không còn điều kiện cơ bản để tiếp tục sản xuất nông nghiệp nữa, nhưng vẫn có cơ sở kinh tế để duy trì vị thế là người lao động làm chủ, được chuyển đổi nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp hay dịch vụ và có cuộc sống ổn định, bền vững. Những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất được quyền góp vốn vào công ty bằng giá trị quyền sử dụng đất của mình theo mức giá hợp lý trong từng thời kỳ được Nhà nước quy định cho từng vùng sát với giá thực tế trên thị trường. Giá trị và số lượng cổ phiếu của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng hay các loại doanh nghiệp khác được giao cho nông dân bằng với giá trị quyền sử dụng đất trên thực tế của từng hộ bàn giao đất cho công ty hay doanh nghiệp. Cùng với việc được quyền góp vốn, những lao động nông nghiệp bị thu hồi đất phải được hỗ trợ đào tạo nghề và được tiếp nhận vào làm việc tại các công ty, doanh nghiệp mà họ góp vốn, nhất là những người lao động trong độ tuổi dưới 40. Đối với những người lãnh đạo lớn tuổi thì tham gia các hoạt động dịch vụ thích hợp. Còn những người đã hết tuổi lao động thì tiếp tục canh tác trên phần đất còn lại và dựa một phần vào nguồn thu nhập có được từ cổ tức.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Trường hợp nông dân không muốn góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất mà muốn nhận tiền đền bù để thực hiện cách đầu tư khác thì số cổ phiếu đó được quy ra thành tiền theo trị giá cổ phiếu để chuyển qua quỹ đầu tư phát triển nhằm giúp cho các hộ nông dân chuyển hướng đầu tư theo thế mạnh của họ. Đây sẽ là biện pháp giúp nông dân sử dụng số tiền đền bù, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, ổn định cuộc sống một cách có hiệu quả và bền vững trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Thứ ba, đẩy nhanh thực hiện chính sách “dồn điền, đổi thửa” để có những cánh đồng lớn, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất hàng hoá hiện đại

Hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân Việt Nam sau gia nhập WTO - 17

Tập trung làm tốt công tác tuyên truyền vận động để người dân nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của công tác dồn điền, đổi thửa từ đó tích cực hưởng ứng, tham gia. Phải thực hiện nguyên tắc công khai, dân chủ, công bằng, bình đẳng và tự nguyện, trong đó, đội ngũ, cán bộ đảng viên ở các xã phải là những người tiền phong gương mẫu đi trước trong thực hiện dồn điền, đổi thửa. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm ra trong thực hiện dồn điền, đổi thửa nhằm uốn nắn kịp thời những sai sót, lệch lạc, bảo đảm việc thực hiện đúng tiến độ, hiệu quả, đồng thời phát hiện xử lý những tổ chức cá nhân lợi dụng chủ trương, chính sách để làm trái pháp luật, vi phạm quy chế dân chủ cơ sở.

Tập trung hỗ trợ vốn, giúp đỡ kỹ thuật và thị trường… cho các hộ và những khu vực dồn điền, đổi thửa sao cho hiệu quả sản xuất ở những nơi đó cao hơn hẳn những khu vực ruộng đất còn manh mún để tạo sự hấp dẫn, làm thay đổi cách nghĩ của người dân trong việc dồn điền, đổi thửa. Đồng thời phải làm tốt công tác quy hoạch để hình thành những vùng sản xuất theo từng cây, con ổn định, lâu dài. Các ban ngành hữu quan cần phải xây dựng bản quy hoạch tổng thể về các loại đất, điều kiện tự nhiên, khí hậu của từng vùng. Trên cơ sở đó, các địa phương nghiên cứu xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể trong sử dụng từng loại đất phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi để có phương án đổi điền, dồn thửa khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn và được nông dân đồng thuận, tránh gây những thiệt hại đáng tiếc cho người nông dân.

Quy mô đất đai càng lớn thì càng phải giám sát sản xuất chặt để hạn chế rủi ro, đảm bảo liên kết trong sản xuất. Những nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp nào không tuân thủ điều kiện cấp phép sản xuất đối với quy mô lớn, Nhà nước có thể rút giấy phép sản xuất và tổ chức đấu thầu cho nông dân, doanh nghiệp khác mua lại.


4.2.1.2. Về hỗ trợ hông dân tiếp cận vốn tín dụng thuận lợi

Vốn đầu tư vào nông nghiệp có độ rủi ro cao, vốn giải ngân nhỏ nhưng chi phí giám sát lớn, trong khi về phía người nông dân do cơ chế, thủ tục cho vay phức tạp và một số lĩnh vực có thời gian thu hồi vốn dài. Chính vì thế, các tổ chức tín dụng không tích cực cho nông dân vay vốn sản xuất. Trong khi đó nông dân nước ta đa phần có mức tích lũy thấp, nếu không vay được vốn thì khó mở rộng quy mô sản xuất, khó đầu tư cho thâm canh, hiện đại hóa sản xuất hoặc thay thế giống mới. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ tích cực để nông dân có thể tiếp cận nguồn vốn thuận lợi.

Thứ nhất, mở rộng tín dụng cho nông dân

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp tục linh hoạt hơn nữa một số cơ chế khuyến khích các NHTM cạnh tranh mở rộng cho vay đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, sử dụng nguồn vốn huy động trên thị trường cấp II… Đồng thời, tiếp tục có biện pháp cụ thể hơn nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh, mở rộng mạng lưới hoạt động ở nông thôn. Ngân hàng Nhà nước trao đổi với Bộ Tài chính, trình Chính phủ nên có cơ chế chủ động hơn về nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam để mở rộng hơn các chương trình tín dụng chính sách, mở rộng hơn cho vay đối với các đối tượng cận nghèo ở vùng nông thôn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế về chính sách, về nguồn vốn để hệ thống Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở tại các vùng nông thôn nói chung tiếp cận được kênh vay tái cấp vốn (như NHNo&PTNT), cũng như các nguồn vốn ủy thác, nguồn vốn của các dự án khác.

Khuyến khích khai thác triệt để các nguồn vốn ủy thác từ các định chế tài chính quốc tế, các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ thông qua các dự án mà NHNo&PTNT ký kết. Đây là nguồn vốn thường được đầu tư dự án phát triển theo loại cây, con hoặc theo vùng, tiểu dự án. Các nguồn vốn ủy thác từ nước ngoài có tính chất ổn định trong một thời gian dài, rất phù hợp với nhu cầu cho vay trung, dài hạn phục vụ cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đang đòi hỏi nhiều vốn có lãi suất thấp, vừa có thời gian dài phù hợp với các đối tượng cần đầu tư về kinh tế trang trại.

Xây dựng tổ chức tín dụng của nông dân sản xuất. Hiện tại, chủ yếu nông dân vay vốn từ ngân hàng. Nhưng vay ngân hàng không dễ, lãi suất cũng cao. Nhiều nông dân còn phải vay lãi cao ngoài hệ thống ngân hàng. Do đó, muốn hỗ trợ nông dân trong


quá trình tái cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả, cần xây dựng tổ chức tín dụng của nông dân. Tổ chức tín dụng này là do các nông dân góp vốn lập nên rồi cho vay lại chính nông dân, lãi thu được lại chia cho nông dân (tất nhiên, mức vay và lãi… thiết thực, sát với điều kiện của nông dân). Từ đó, sẽ chấm dứt nạn “tín dụng đen” ở nông thôn. Bên cạnh đó, cần có tổ chức hợp tác xã để làm một chỗ dựa cho nông dân không phải tự bơi nữa. Thông qua tổ chức hợp tác xã này, các nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư tài trợ bằng hình thức cho nông dân vay vốn để sản xuất. Thậm chí, có doanh nghiệp ứng trước tiền cho nông dân để họ làm ra sản phẩm rồi doanh nghiệp mua lại thông qua vai hợp tác xã.

Thứ hai, đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng đối với khách hàng nông dân

Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng của hệ thống các trung gian tài chính nông thôn cũng là giúp các hộ nông dẫn tiếp cận dễ dàng và hiệu quả nguồn vốn tín dụng. Để đạt được điều đó, cần thực hiện:

Kết hợp nhiều phương thức cho vay linh hoạt như phương thức cho vay dự án đầu tư, cho vay hạn mức tín dụng,... nhằm giúp cho người vay chủ động hơn trong việc sử dụng vốn phù hợp với chu kỳ sản xuất trong nông nghiệp, giảm thiểu các thủ tục vay, tiết kiệm được các chi phí gián tiếp khi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Đặc biệt, phát triển loại hình tín dụng cho thuê tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng thị trường cho thuê tài chính nông thôn nhằm khắc phục hạn chế về tài sản đảm bảo nợ vay (cho vay không cần tài sản thế chấp như vay ngân hàng). Hoạt động cho thuê tài chính giúp các hộ sản xuất đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ với qui mô vốn lớn, thời gian cho thuê trung, dài hạn (5 - 10 năm) đáp ứng nhu cầu vốn, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, nông thôn.

Phát triển sản phẩm cho vay hoạt động tiếp thị nông sản cho các hộ nông dân có hàng hoá có thể tiêu thụ, các nhóm đầu tư chung và hợp tác xã kinh doanh nông sản do nông dân góp vốn. Về mục đích, sản phẩm tín dụng này hỗ trợ cho các đối tượng trên có điều kiện tích trữ nông sản sau thu hoạch, thực hiện tiếp thị và bán các sản phẩm đó tại mức giá nhất định để đảm bảo ổn định đầu ra và tăng thu nhập cho người nông dân. Thời hạn vay từ 3 đến 6 tháng sau thu hoạch, với lãi suất theo quy định của ngân hàng. Tài sản thế chấp chính là nông sản hàng hoá. Các trung gian tài chính sử dụng biên bản lưu kho làm chứng từ vay vốn hoặc có thể chọn phương thức uỷ quyền cho một đơn vị


kinh doanh kho bãi cất giữ hàng hoá được cầm cố theo một hợp đồng tay ba. Hàng hoá chỉ được giải chấp khi có thư chấp nhận của các trung gian tài chính.

Phát triển phương thức tài trợ thay thế cho tín dụng bảo đảm bằng tài sản đối với tất cả các khách hàng có thể đưa ra các hình thức thay thế tài sản đảm bảo nhằm giảm việc phụ thuộc vào tài sản thế chấp hữu hình có giá trị thanh khoản thấp, không đầy đủ giá trị pháp lý đồng thời định hướng cho ngân hàng nhận các loại tài sản thế chấp an toàn và có khả năng thanh khoản. Thời hạn vay và lãi suất cho vay tương tự như các hình thức cho vay khác. Đối với hình thức cho vay này, các trung gian tài chính cần quan tâm đến các loại hình tài sản đảm bảo có thể thay thế đất và các tài sản gắn liền với đất như thư bảo lãnh, tín dụng thư, đơn đặt hàng, hợp đồng mua bán, thỏa thuận thu mua nông sản, phiếu nhập kho, bảo lãnh của tổ vay vốn. Các trung gian tài chính phân tích tính chất pháp lý của các loại hình thay thế này và đề ra phương pháp xác định giá trị của các hình thức đó với tư cách là hàng hoá, bất động sản khi các hình thức này được sử dụng để thay thế bảo đảm bằng tài sản.

Thứ ba, hoàn thiện chương trình bảo hiểm nông nghiệp thực sự trở thành “chỗ dựa của nhà nông”

Việt Nam là quốc gia sản xuất nông nghiệp, có đến 70% dân số sống ở nông thôn. Gần đây, mỗi năm, thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi đã làm nông dân Việt Nam thiệt hại ước tính từ 13 đến 15 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, NSNN hằng năm chỉ dành từ 200 - 400 tỷ đồng (chưa tính ngân sách địa phương) để hỗ trợ nông dân đối phó dịch bệnh. Nhưng đây mới là chi tối thiểu chứ chưa giúp nông dân khôi phục và bù đắp chi phí sản xuất. Do vậy, áp dụng bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) sẽ trở thành cứu cánh cho người nông dân khi họ gặp rủi ro trong sản xuất. Tuy nhiên, thời gian thực hiện thí điểm BHNN, bên cạnh những kết quả đạt được, đang còn không ít vấn đề đặt ra. Bản thân ngành nông nghiệp đã chứa đựng rất nhiều khó khăn và rủi ro, phụ thuộc phần lớn vào những nhân tố khó kiểm soát là thời tiết, khí hậu. Mặt khác, nông dân còn nghèo, tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thói quen và kinh nghiệm còn hạn chế thì bảo hiểm nông nghiệp cũng sẽ gặp phải không ít khó khăn rủi ro trước mắt. Như vậy vấn đề đặt ra cho loại hình bảo hiểm đặc thù này là cần có cơ chế hỗ trợ của Nhà nước một cách thích hợp mới hy vọng đạt hiệu quả. Để BHNN phát triển hơn, có một số giải pháp sau:


Phổ biến sâu rộng những quyền lợi của chính sách BHNN mang lại cho nông dân. Khó khăn nhất hiện nay trong việc triển khai BHNN là làm thế nào để nông dân hiểu được những ưu đãi họ được hưởng, quyền lợi của họ khi tham gia bảo hiểm với sự hỗ trợ gần như tối đa của Chính phủ để thu hút số đông tham gia. Ở nước ta, BHNN là một chính sách mới, không chỉ nông dân - đối tượng tham gia bảo hiểm mà ngay cả doanh nghiệp thực hiện bảo hiểm, cơ quan tham mưu cho Nhà nước, các cấp lãnh đạo và tổ chức đoàn thể xã hội địa phương cũng chưa nhận thức, hiểu biết một cách thấu đáo. Do vậy, trước mắt cần phải thông tin một cách đầy đủ, minh bạch, cụ thể, dễ hiểu loại hình BHNN này với nhiều hình thức. Các địa phương cần thành lập ban chỉ đạo, các tổ công tác để tổ chức hướng dẫn lại cho người nông dân tiếp cận được dễ dàng với BHNN, cần thông tin cho họ đầy đủ thế nào là BHNN, vì sao cần tham gia, thủ tục ra sao và cơ quan nào tư vấn giúp đỡ; để được bảo hiểm bồi thường cần những điều kiện gì…

Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đạt được một số những điều kiện sau: Các sản phẩm cần đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức và trình độ của người nông dân; Phạm vi bảo hiểm thiết thực; Phí bảo hiểm thấp, cách thức đóng phí phù hợp với thu nhập và thói quen của người nông dân; Thủ tục tham gia bảo hiểm và bồi thường cần đơn giản, nhanh chóng.

Xây dựng cơ chế chính sách riêng cho BHNN mang tính bền vững. Để thực hiện được điều đó, cần có sự tham gia, quan tâm của của các doanh nghiệp bảo hiểm, các cấp, các ngành và toàn xã hội. Do đó, cần phải xây dựng cơ chế chính sách riêng cho BHNN bao gồm: hỗ trợ người dân; hỗ trợ doanh nghiệp, Nhà nước nhận tái bảo hiểm cho doanh nghiệp kinh doanh BHNN; nghiên cứu các mức độ rủi ro cho từng đối tượng, từng vùng để có chính sách phát triển bảo hiểm phù hợp: phương châm đi từ dễ đến khó (lựa chọn các đối tượng có mức độ rủi ro đồng nhất, mức độ vừa phải, sản phẩm bảo hiểm đơn giản dễ thực hiện, lựa chọn rủi ro dễ kiểm soát …), sau cùng sẽ là áp dụng sự đa dạng hoá các hình thức bảo hiểm, bảo hiểm chỉ số và bảo hiểm theo phương pháp truyền thống… Tuy nhiên, sự hỗ trợ phải mang tính bền vững, có định hướng, tăng tính chủ động từ nông dân chứ không phải cách làm “giật gấu vá vai” theo kiểu thiệt hại đến đâu khắc phục hậu quả tới đó như hiện nay. Chẳng hạn, Nhà nước vừa hỗ trợ chính sách mở cho doanh nghiệp, vừa đầu tư khoa học kỹ thuật cho nông dân; đặt doanh nghiệp bảo hiểm ở vị trí trung gian, đứng ra bán dịch vụ cho


nông dân. Khi gặp thiên tai, dịch bệnh... dẫn tới thiệt hại thì bảo hiểm chịu một phần theo khả năng trách nhiệm đã đăng ký, còn lại sẽ do Nhà nước đảm nhận.

Tạo được sự đồng thuận giữa người dân và doanh nghiệp bảo hiểm. Quá trình thực hiện thí điểm chương trình BHNN đã nảy sinh một số vấn đề bất cập. Doanh nghiệp bảo hiểm than thua lỗ, chậm trễ trong việc bồi thường tiền bảo hiểm cho nông dân vì họ cho rằng một số hộ dân có dấu hiệu trục lợi qua việc bồi thường bảo hiểm, các hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp vẫn tham gia mang tính chất thăm dò (tham gia ít hoặc không tham gia), hoặc lựa chọn các đối tượng được bảo hiểm có rủi ro cao để tham gia. Còn nông dân được bảo hiểm thì lại cho biết công ty bảo hiểm tìm cách làm khó nông dân trong việc bồi thường, thậm chí ngưng hợp đồng bảo hiểm do e ngại rủi ro… Sự nhùng nhằng này khiến cho ý nghĩa của việc thí điểm BHNN không đạt kết quả như mong muốn. BHNN thực chất là một chính sách tốt, nhưng để thành công thì cần phải có được sự ủng hộ từ phía người dân. Về phía doanh nghiệp, có thể nhân rộng hình thức thu phí bảo hiểm của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Công ty Bảo hiểm Đông Đô… là đã cho phép thu phí làm nhiều kỳ tạo điều kiện cho các chủ hộ chăn nuôi tham gia bảo hiểm. Đây là cách làm sáng tạo và thu hút được sự quan tâm của người dân. Đồng thời, cần tích cực chủ động đẩy nhanh công tác rà soát, giải quyết các hồ sơ yêu cầu bồi thường, phối hợp với ban chỉ đạo địa phương, các cơ quan chức năng xác nhận thiệt hại, xác định cụ thể loại dịch bệnh, mức độ tổn thất và giải quyết bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm để khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

Thực hiện tốt công tác giám sát rủi ro và phòng chống trục lợi bảo để bảo đảm ý nghĩa và sự phát triển bền vững của chương trình BHNN. Nếu như ban chỉ đạo BHNN địa phương và doanh nghiệp bảo hiểm không chú trọng và nâng cao vai trò trong công tác, đồng thời người dân không nắm hết được nguyên tắc cũng như quy trình bảo hiểm, dẫn tới khiếu kiện, thắc mắc kéo dài thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình triển khai trên quy mô diện rộng. Và người chịu thiệt thòi trước nhất chính là các hộ nông dân vì không được đảm bảo nếu xảy ra rủi ro. Cùng với sự cố gắng nỗ lực của Chính phủ, của các cấp, các ngành có liên quan, các công ty bảo hiểm trong việc ngăn chặn động cơ trục lợi BHNN, cũng cần sự hợp tác của những người tham gia BHNN trong việc nâng cao nhận thức về BHNN. BHNN thực chất là bảo hiểm tương hỗ và việc triển khai thí điểm cũng vì mục tiêu ổn định, phát triển ngành nghề cũng như đời

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2022