Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Mô Hình Nhà Nước Kiểu Mới Ở Việt Nam


Quốc thấm thía và cảm nhận sâu sắc hơn bản chất dối trá, giả nhân giả nghĩa của chế độ dân chủ tư sản mà Luận cương của Lênin đã chỉ ra. Cái mà giai cấp tư sản cũng như chế độ dân chủ tư sản gọi là “bình đẳng” thực chất chỉ là bình đẳng hình thức, bình đẳng cho những kẻ hữu sản.

Hướng tới một mô hình chính trị mới trước hết nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc nên Nguyễn Ái Quốc dành nhiều sự quan tâm đến những luận điểm của Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Đặc biệt ở các dân tộc trong đó những quan hệ có tính chất phong kiến hoặc gia trưởng nông dân đang chiếm ưu thế như Việt Nam. Trong khi trên thế giới người ta bàn nhiều tới cách mạng vô sản ở chính quốc mà lãng quên hoặc nhận thức chưa đúng đắn về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa thì Người phát hiện ra chính Lênin là người đầu tiên đã nhấn mạnh và nhận thức hết tầm quan trọng to lớn của việc giải quyết một cách đúng đắn vấn đề thuộc địa đối với cách mạng thế giới. Trong tất cả các Đại hội của Quốc tế Cộng sản, của Quốc tế Công đoàn và của Quốc tế Thanh niên Cộng sản, vấn đề thuộc địa luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Lênin chỉ rõ không chỉ chống bọn địa chủ và chế độ phong kiến mà còn phải chống cả giai cấp tư sản đã bị đế quốc hóa và chế độ tư bản chủ nghĩa.

Từ những luận điểm đầy ý nghĩa về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, Luận cương còn chỉ ra mô hình nhà nước tương lai có khả năng tạo sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đó là mô hình mà “Chính phủ công nông binh phát ruộng đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” [60, tr. 303, 304]. Tiếng vang của Lênin và Cách mạng Tháng Mười đã đến tận những vùng xa xăm của thế giới và Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ “người ưu tú nhất của nước đó” cũng như “một dân tộc ở miền Bắc xa xôi” vì họ “đã đánh đuổi được bọn áp bức và tự quản lý lấy mình” [60, tr. 222]. Như vậy, khát vọng của Nguyễn Ái Quốc về một xã hội trong đó không còn áp bức dân tộc qua trải nghiệm thực tiễn đã được xác lập trong tương lai đó là một mô hình trong đó người dân tự quản lý lấy mình. Nguyễn Ái Quốc đã


tìm được sự đồng cảm lớn khi gặp được tư tưởng của Lênin. Nhận thấy sự khác biệt giữa cuộc Cách mạng Tháng Mười do Lênin lãnh đạo với các cuộc cách mạng tư sản trước đây, Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải thứ tự do, bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được Vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” [60, tr. 304]. Khác với tất cả các cuộc cách mạng tư sản, Cách mạng Tháng Mười đã giải quyết được mục tiêu kép: giành được độc lập cho dân tộc đồng thời đem tới ấm no, hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nếu chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc như các cuộc cách mạng tư sản mà công - nông vẫn cực khổ thì đó là cách mạng nửa vời, không đến nơi, không triệt để. Từ sự thấu hiểu tư tưởng của Lênin và Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho cách mạng Việt Nam con đường dẫn tới “một tương lai mới, sáng lạn”, gắn độc lập của nước nhà với hạnh phúc của đông đảo những người lao động - một con đường thực sự “có nghĩa lý”. Con đường đó là con đường đi theo Cách mạng Tháng Mười, theo tư tưởng của Lênin và Đệ tam Quốc tế: “An Nam muốn cách mệnh thành công thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế” [60, tr. 312]. Kết luận “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [66, tr. 30] là sự gián tiếp phủ nhận kiểu nhà nước phong kiến cũng như kiểu nhà nước tư sản và khẳng định kiểu nhà nước sẽ được lựa chọn cho cách mạng Việt Nam hướng tới là kiểu

nhà nước xã hội chủ nghĩa.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

Sau gần 10 năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rất rõ hai vấn đề quan trọng của mô hình thể chế chính trị đương thời:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.

Thứ nhất, sự bất lực và lạc hậu của thể chế chính trị phong kiến và mặt trái của thể chế chính trị tư sản, thể hiện ở mục tiêu bóc lột người lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Thứ hai, sự xuất hiện loại hình thể chế chính trị kiểu mới ở Nga sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười - thể chế Xôviết. Thể chế này có mục tiêu giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, phù hợp với ước nguyện của Người và thực tế lịch sử nước ta.

Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 4

Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã làm tất cả để thiết lập một thể chế chính trị mới phù hợp với thực tiễn của cuộc cách mạng giải phóng ở Việt Nam. Trong sự vận động của cách mạng Việt Nam, tư duy của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về một hình thức nhà nước cụ thể luôn luôn có những biến chuyển cho phù hợp với bối cảnh lịch sử. Điều đó, thể hiện tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bản lĩnh chính trị của anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh.

1.2.1. Nhận thức và chuẩn bị tổ chức cho sự ra đời của một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

1.2.1.1. Nhận thức và hoạt động chính trị thực tiễn của Đảng năm 1930

Nguyễn Ái Quốc đã sống một thời gian trên đất nước Xôviết, nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười và nền dân chủ Xôviết. Người đánh giá, chỉ có Cách mạng Tháng Mười và một chính quyền mang bản chất giai cấp công nhân mới thực sự đem lại quyền lợi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, Người không rập khuôn, giáo điều, bê nguyên xi mô hình Xôviết áp dụng vào Việt Nam mà kế thừa trên tinh thần sáng tạo. Điểm kế thừa rõ nhất chính là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin, tức bản chất giai cấp công nhân của nhà nước.

Những quan điểm cơ bản trên đây của Nguyễn Ái Quốc đã đặt cơ sở cho một định hướng về một nhà nước phù hợp với đặc điểm dân tộc Việt Nam, về vai trò pháp luật trong việc cai trị đất nước, quản lý xã hội. Đó là chính quyền nhà nước của nhân dân lao động. Tinh thần cơ bản này được thể hiện trong các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, chẳng những vạch ra nhiệm vụ, phương pháp, lực lượng của cách mạng… để tiến hành


cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tự do của nhân dân Việt Nam, mà còn chỉ rõ phương hướng phát triển của nước Việt Nam sau khi giành được độc lập.

Sự ra đời của Đảng là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ, phấn đấu không mệt mỏi của Nguyễn Ái Quốc và những người Việt Nam yêu nước, lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ra đời là kết quả của một quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng về tư tưởng và tổ chức, thông qua hoạt động của các tổ chức tiền thân của Đảng. Ngay khi ra đời, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng để “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông” [61, tr. 1], đó là công cụ chuyên chính của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng để chống ngoại xâm và nội phản, phát triển đất nước phồn vinh và “đi tới xã hội cộng sản”.

Ngay trong năm 1930, phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo đã nổ ra với quy mô lớn, trên phạm vi toàn quốc. Đường lối của Đảng đã quy tụ được một lực lượng cách mạng hùng hậu đứng ra đấu tranh trực diện với kẻ thù dân tộc và giai cấp. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, cao trào cách mạng công nông nổ ra sôi nổi và quyết liệt nhất khiến cho chính quyền địch tan rã ở nhiều nơi. Trước tình hình đó, nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo Nông hội và quần chúng lập ra chính quyền cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động, sau này gọi là chính quyền Xôviết. Xôviết Nghệ Tĩnh là hình thức nhà nước dân chủ đầu tiên được xác lập ở Việt Nam. Đây là cơ sở để xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám.

1.2.1.2. Quyết định thay đổi chiến lược cách mạng, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, kiến lập chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Tháng 09/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 06/1940, nước Pháp đầu hàng phát xít Đức. Ngày 22/06/1941, Phát xít Đức tấn công Liên Xô… Từ đây, tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi, một bên là lực lượng phátxít và một bên là lực lượng đồng minh chống phátxít.


Trong nước, thực dân Pháp thủ tiêu toàn bộ thành quả của phong trào dân sinh 1936 - 1939, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, thủ tiêu dân chủ, tiến hành vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh… Ngày 22/09/1940, phátxít Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Trước áp lực quân sự của Nhật, thực dân Pháp liên tục nhân nhượng, mở cửa rước Nhật vào nước ta để mở thêm căn cứ đánh quân Đồng minh. “Sự thực là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa” [6]. Từ đó, dân tộc ta một cổ bị hai tròng áp bức, bóc lột của Nhật - Pháp.

Tình hình trong nước và quốc tế đã có những chuyển biến lớn. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc phátxít Pháp - Nhật diễn ra gay gắt. Lúc này: “Nhân dân Việt Nam… ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng mong muốn độc lập, tự do và đang trong tư thế một người lên tiếng vạn người ủng hộ” [23, tr. 112].

Bối cảnh lịch sử lúc này đã tác động đến kinh tế, xã hội và đặc biệt là thái độ của các giai cấp đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Giải phóng dân tộc, giành lại quyền độc lập tự do trở nên cấp bách và nóng bỏng hơn bao giờ hết.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) đã quyết định “phải thay đổi chính sách” [22, tr. 537] cho phù hợp với thời cuộc mới. Tháng 12/1940, tại làng Nậm Quang sát biên giới Trung - Việt, Nguyễn Ái Quốc đã mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang bước vào giai đoạn mới.

Ngày 28/01/1941, Hồ Chí Minh bí mật trở về nước, ở tại Pác Pó, Hà Quảng, Cao Bằng và bắt tay ngay vào việc tổ chức các đoàn thể cứu quốc, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng, họp từ ngày 10 đến 19/05/1941 ở Pác Pó (Hà Quảng, Cao Bằng), quyết định phải thay đổi chiến lược cách mạng cho phù hợp với yêu cầu đánh đuổi được Pháp - Nhật, làm cho nhân dân ta được độc lập tự do, tự mình làm chủ vận mệnh của mình. “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc,


thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” [23, tr. 113].

Vì vậy, nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam lúc này là phải đánh đuổi được Nhật - Pháp giành lại độc lập tự do. Muốn làm tốt được nhiệm vụ đó, trước hết phải: “Tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp - Nhật xâm chiếm nước ta” [23, tr. 112].

Như vậy, đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám, quan điểm của Đảng chẳng những thể hiện rõ nguyên tắc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân mà còn làm rõ mối quan hệ hai chiều giữa chính quyền và nhân dân. Đồng thời, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám cũng đã nêu rõ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhân dân đối với chính quyền mới.

Ban Chấp hàng Trung ương Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi với tên gọi là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm đoàn kết toàn dân đấu tranh chống Pháp

- Nhật. Sự nghiệp chống Pháp - Nhật do toàn dân đoàn kết trong Việt Minh thực hiện. Sau khi đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ “thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật, những bọn phản quốc, những bọn thù, không được giữ chính quyền, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy” [23, tr. 114].

Ngày 06/06/1941, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết chống Pháp

- Nhật. Thư có đoạn viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” [61, tr. 230].


Ngày 25/10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình cứu nước, tuyên bố với quốc dân đồng bào “Việt Nam độc lập đồng minh” ra đời. Chương trình của Việt Minh nêu rõ sẽ thi hành những chính sách cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… gồm 44 điểm nhằm thực hiện hai điều:

Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do.

“Sau khi đánh đổ được đế quốc phátxít Nhật - Pháp, sẽ lập nên Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, theo tinh thần tân dân chủ, lấy cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm cờ chung của nước.

Chính phủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Quốc dân đại hội cử lên” [23, tr. 467].

Chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng sáng tạo của Đảng, Chương trình cứu nước hợp lý, hợp tình của Việt Minh đã đáp ứng nguyện vọng độc lập tự do của toàn dân và lời kêu gọi cứu quốc thống thiết của lãnh tụ Hồ Chí Minh là mục tiêu đấu tranh của toàn dân tộc trong cuộc chiến dấu chống Pháp - Nhật giành lấy độc lập, tự do, kiến lập chính thể cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quá trình hình thành, phát triển đường lối của Đảng và Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước mang tính chất nhân dân rộng rãi, thể hiện tư duy độc lập, sáng tạo, phù hợp đặc điểm dân tộc thuộc địa - đó là chủ trương xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Phong trào Việt Minh đã phát triển mạnh mẽ, từ vùng căn cứ Việt Bắc, Việt Minh đã lan rộng dần khắp cả nước, có hệ thống tổ chức từ trung ương xuống cơ sở. Các hội cứu quốc được phát triển khắp nơi. Hội Văn hóa cứu quốc ra đời cuối năm 1943. Đảng dân chủ Việt Nam được thành lập tháng 06/1944 và đã gia nhập Việt Minh. Các đội du kích bí mật, đội Cứu quốc quân đẩy mạnh hoạt động ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao - Bắc - Lạng khẩn trương chuẩn bị phát động khởi nghĩa để giành chính quyền. Việt Minh trở thành trung tâm tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đảng phái chính trị yêu nước và dân chủ, các cá nhân yêu nước trong toàn quốc hình thành một lực lượng chính trị rộng lớn, cùng với các tổ chức cứu quốc khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.


Năm 1944, một số đảng phái của người Việt Nam hoạt động ở Trung Quốc đã thống nhất thành Việt Nam Cách mạng đồng minh hội và họp Hải ngoại đồng chí hội nghị, nêu vấn đề phải triệu tập một cuộc toàn quốc đại hội gồm đại biểu các đảng phái cách mạng ở trong nước và ngoài nước tham gia, để đẩy mạnh cuộc vận động cách mạng Việt Nam. Được tin ấy, Tổng bộ Việt Minh hoan nghênh và nêu rõ: “Chỉ có một cuộc đại biểu đại hội của tất cả các đảng phái cách mạng Việt Nam như thế mới tập trung được hết các lực lượng cách mạng trong ngoài, mới hướng dẫn được toàn thể quốc dân và cuộc tranh đấu quyết liệt sắp tới” [23, tr. 509].

Trên thế giới, quân Đồng minh đẩy mạnh tiến công chống lại bọn phátxít. Ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ phản công quân Nhật trên toàn chiến trường. Nhật liên tiếp thất bại và bị tổn thất nặng nề. Trong bối cảnh đó, tháng 10/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư đến đồng bào, đồng chí, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc, chuẩn bị đón cơ hội khởi nghĩa đang đến: “Chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phải cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang...” [61, tr. 537].

Hình ảnh phôi thai của lực lượng vũ trang cách mạng - công cụ bạo lực bảo vệ chính quyền, cũng được thiết lập và xây dựng. Sự ra đời của Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau này thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân là sự chuẩn bị có tính định hướng làm tiền đề cho sự ra đời của một lực lượng quân sự bảo vệ chính quyền cách mạng… Công cuộc chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa càng được đẩy mạnh khắp cả nông thôn và đô thị.

1.2.2. Xây dựng mô hình nhà nước kiểu mới ở các khu giải phóng (03/1945 - 08/1945)

Cuối năm 1944 đầu năm 1945, cục diện chiến tranh chống phátxít đi vào giai đoạn kết thúc. Ngày 09/03/1945, Nhật đảo chính, lật đổ chính quyền thực dân Pháp

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/05/2023