quyền thật sự độc lập. Đặc biệt, Nghị quyết của Quốc dân Đại hội Tân Trào ghi rõ: “Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập” [21, tr. 2]. Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945 tiếp tục khẳng định phải “độc lập về chính trị” [24, tr. 26]. Đây là yếu tố “bất biến” trong muôn vàn sự thay đổi của tình hình thế giới và Việt Nam. Độc lập về chính trị, giữ vững chính quyền nhà nước là cơ sở cho độc lập về kinh tế, xây dựng nền văn hóa dân tộc… Hay nói cách khác, chưa thể có một nền độc lập dân tộc thực sự nếu như chưa có một nhà nước độc lập.
Xây dựng một nhà nước độc lập là mục tiêu hàng đầu và là vấn đề có tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác, rằng “… giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” [55, tr. 623, 624]. Cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo ở Việt Nam là cuộc cách mạng “tự giải phóng”, vì vậy hệ quả tất yếu sẽ sản sinh ra một nhà nước độc lập. Nó khác với nhiều nước khác trên thế giới, khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai được Đồng minh đem quân “giải phóng giúp”, nên sự chịu lệ thuộc nhất định vào các cường quốc. Thực tế, mục tiêu xây dựng một nhà nước độc lập không phải đến Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản mới đặt ra, mà các nhà yêu nước tiền bối đều đã nhận thức được. Song, mức độ và tính chất của nhà nước độc lập trong nhận thức của các nhà cách mạng theo trào lưu dân tộc chủ nghĩa ở đầu thế kỷ XX chưa được giải quyết một cách khoa học và cách mạng như mô hình nhà nước trong tư duy chính trị của Hồ Chí Minh.
Một nhà nước độc lập trong nhận thức của Đảng ta và Hồ Chí Minh phải là một nền độc lập thật sự chứ không phải độc lập giả hiệu. Theo Đảng ta, một nhà nước độc lập thật sự hoàn toàn xa lại với cái gọi là “chế độ bảo hộ”, “chế độ ủy trị”, độc lập gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vì vậy, bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 đã nêu rõ: “Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” [62, tr. 3]. Và trong thực tế đã tồn tại một Chính phủ Việt Nam độc lập, xóa bỏ các quan hệ thực dân với Pháp, để xác lập lại một quan hệ mới, bình đẳng với các nước khác.
Tuy nhiên, để có một nhà nước độc lập thật sự phải trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài vì ngay sau khi giành chính quyền, kẻ thù luôn tìm mọi cách để áp đặt trở lại ách thực dân; bắt nhà nước cách mạng đầu hàng hoặc lệ thuộc chúng. Trong Hiệp định sơ bộ ngày 06/03/1946, Chính phủ Việt Nam chỉ mới đưa ra yêu cầu hạn chế để “nước Pháp công nhận nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam là một nước tự do… đứng trong khối Liên hiệp Pháp” [24, tr. 48]. Mặc dù Việt Nam mới chỉ là “quốc gia tự do”, song tổ chức bộ máy được Pháp thừa nhận trong Hiệp định sơ bộ lại là một nhà nước “có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, có quân đội và tài chính riêng” [24, tr. 49]. Đương nhiên, việc ký kết một Hiệp định là sách lược hòa hoãn, phản ánh tương quan so sánh thực lực mỗi bên. Với ta, đó là “hòa để tiến”, chấp nhận “quốc gia tự do” để đi đến độc lập thật sự.
Đặt trước bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945, để mưu cầu một nhà nước độc lập, Đảng ta và Hồ Chí Minh ra sức tranh thủ các nước Đồng minh thừa nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập (02/09/1945) đến ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hàng chục lần gửi điện, thư yêu cầu Chính phủ các nước Mỹ, Liên Xô, Trung Hoa (Tưởng). Anh công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Mặc dù chưa được các quốc gia này công nhận, song các văn kiện đó đã thể hiện tiếng nói chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, khẳng định sự tồn tại của một Nhà nước độc lập ở Việt Nam, do nhân dân Việt Nam tạo dựng nên.
2.1.2.2. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Mô Hình Nhà Nước Kiểu Mới Ở Việt Nam
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 5
- Nhà Nước Theo Thể Chế Dân Chủ Cộng Hòa Ở Việt Nam
- Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 - 1946)
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 9
- Hoạt Động Nhà Nước Nhằm Củng Cố Và Tăng Cường Thực Lực Về Mọi Mặt
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì làm cho đến nơi, nghĩa
là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều…” [60, tr. 292]. Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [59, tr. XIX]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Thế nào là nhà nước của dân? Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân và là “công bộc” của dân.
Thế nào là nhà nước do dân? Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người yêu cầu: “Tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” [66, tr. 375]. “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” [59, tr. XIX]. Nghĩa là khi các cơ quan đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó.
Thế nào là nhà nước vì dân? Theo Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm kiêm chính. Người đã nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được
chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó” [62, tr. 272].
Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [59, tr. XVII].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường” [62, tr. 64]. Trong Di chúc, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng “là người lãnh đạo” và “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Quan điểm chính trị của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân luôn khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn trong lịch sử dân tộc. Nhà nước và nhân dân là mối tương quan hai chiều, tác động lẫn nhau, tiền đề tồn tại cho nhau. Giải quyết tốt mối quan hệ này chẳng những làm cho nước mạnh, dân giàu, mà còn thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng tiên phong.
2.1.2.3. Xây dựng nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đề cập đến nhà nước, ta hiểu đó là nhà nước của giai cấp nào, tồn tại trên nền tảng kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế xã hội nào… Khi nói Nhà nước dân chủ mới của nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, không có nghĩa đó là nhà nước phi giai cấp hay siêu cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhà nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện lãnh đạo là Đảng Cộng sản (bộ phận ưu tú nhất), Người viết: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp.
Nhà nước của ta thành lập sau Cách mạng Tháng Tám đã là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo” [66, tr. 370].
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước được thể hiện sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo Nhà nước theo phương thức nào? Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối lớn, thông qua tổ chức của mình là các Ban cán
sự trong Quốc hội, Chính phủ và các Bộ; Nhà nước cai trị bằng pháp luật. Bản chất này còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ; tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội…
Theo quan điểm của Hồ Chi Minh, giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng đươc giai cấp công nhân một cách triệt để. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước không làm triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, trái lại nó thống nhất, hài hòa trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc.
Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước với tính nhân dân và tính dân tộc được thể hiện qua:
Sự ra đời của Nhà nước dân chủ là kết quả của một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng, từ các phong trào: Văn Thân, Cần Vương, Đông Du, Duy Tân… đến cao trào Xôviết Nghệ Tĩnh và bao cuộc khởi nghĩa yêu nước: Yên Bái, Nam Kỳ, Bắc Sơn…
Nhà nước bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc. Việc xây dựng một nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ đặc trưng của một nước vốn là thuộc địa tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Trong cuộc cách mạng đó, các giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản ái quốc và địa chủ yêu nước, tiến bộ đã cùng tham gia cách mạng, giành quyền độc lập sẽ liên hiệp cùng nhau xây dựng chính quyền, đấu tranh giữ vững chính quyền đó... Thành phần rộng rãi và tinh thần đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc là nét riêng của Nhà nước cách mạng Việt Nam 1945 - 1946. Để phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước ta lúc bấy giờ, Đảng Cộng sản đã có chủ trương xây dựng nhà nước của toàn dân tộc trên cơ sở tìm kiếm, trân trọng, phát huy các yếu tố tương đồng, thống nhất để hạn chế, giải quyết dần các yếu tố khác biệt, hoặc mâu thuẫn theo phương châm chỉ đạo: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” và tất cả cho con người, vì con người. Nhà nước mới của ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện để bảo vệ thành quả cách mạng. Nhờ biết phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước do Hồ Chí Minh đứng đầu đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, bảo vệ nền độc lập, thống nhất Tổ quốc và bắt tay vào xây dựng đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
2.1.2.4. Xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Trong quan điểm chính trị của Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến. Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do, độc lập của mình. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên có được địa vị hợp pháp. Bản Tuyên ngôn có giá trị đóng góp vào sự phát triển nền tảng pháp lý tiến bộ của loài người.
Mặc dù phải đối phó với những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập, Quốc hội do toàn dân bầu ra… Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề về nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt Nam mới.
Theo quan điểm của Người, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước được cai trị bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới đảm bảo được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ… Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách 8 điểm gửi tới Hội nghị Vécxây, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật” [59, tr. 441]. Năm 1922, trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định vai trò của pháp luật và đã khái quát điều yêu sách trên thành lời ca:
“Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [59, tr. 473].
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người, điều này khác biệt hoàn toàn với pháp luật của chế độ cũ, đúng như các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã nói: “Không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người” [54, tr. 350]. Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố nhiều đạo luật, sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật…
Một mặt chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân. Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật…
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Những quan điểm trên thể hiện rõ tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân chủ… của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2.2. Xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945 - 1946)
Tổng khởi nghĩa thành công, Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh đứng đầu được Quốc dân Đại hội Tân Trào đề ra đã kịp thời chuyển sang thực hiện
chức năng của một Chính phủ lâm thời. Song Chính phủ đó chưa có địa vị hợp pháp, chưa được quốc tế công nhận. Việc Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân trong lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 bước đầu tạo được địa vị hợp pháp của một Chính phủ do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên. Để có một nhà nước hợp hiến, một cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu là một trong những công việc cấp bách của Chính phủ lâm thời. Việc xây dựng bộ máy nhà nước toàn diện từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan lập pháp đến hành pháp và tư pháp, từ soạn thảo hiến pháp, các văn bản pháp luật đến xác định các nguyên tắc hoạt động của nhà nước… được đặc biệt chú trọng.
Trung tâm chế độ chính trị của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là sự tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bất kỳ nhà nước nào tồn tại và hoạt động cũng theo những nguyên tắc cụ thể, nguyên tắc phản ánh được hiện thực khách quan và dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Các nguyên tắc chính là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nó bị chi phối bởi các quan điểm nhất định, do lập trường giai cấp và mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội quy định. Vì vậy, ở từng thể chế chính trị có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước khác nhau. Ở Việt Nam, thể chế dân chủ cộng hòa (1945 - 1946) thực hiện theo nguyên tắc mácxít về xây dựng nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phân cấp rõ ràng, rành mạch; Đảng Cộng sản lãnh đạo. Việc vận dụng các nguyên tắc này để xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong bối cảnh những năm 1945 - 1946, khi thù trong giặc ngoài chống phá ác liệt, nhiệm vụ cách mạng vẫn là “dân tộc giải phóng” thì càng cần phải bảo đảm tính lịch sử cụ thể.
Chỉ trong vòng hơn một năm, tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã trải qua nhiều lần cải tổ để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, bảo đảm khả năng tự vệ trước sự chống phá của các thế lực phản cách mạng, cuối cùng đi đến thiết lập một chính quyền theo thể thức dân chủ mà Hiến pháp quy định.