ở Đông Dương, tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, tạo cơ hội tốt cho những điều kiện khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam.
Tối ngày 09/03/1945, giữa lúc tiếng súng của Nhật lật đổ Pháp đang nổ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh) dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh. Hội nghị vạch ra những nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp cách mạng mới phù hợp với tình hình đất nước do cuộc đảo chính của Nhật tạo ra. Ngày 12/03/1945, Ban Thường vụ đã ra bản Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản chỉ thị vạch rõ cuộc đảo chính của Nhật đã làm cho hàng ngũ kẻ thù thay đổi. Đế quốc phátxít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân ta. Khẩu hiệu chính và toàn bộ chiến thuật phải thay đổi. Đem khẩu hiệu “đánh đuổi phátxít Nhật” thay cho khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp”, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Về mặt tổ chức, chỉ thị nêu rõ phải mở rộng cơ sở Việt Minh, phát triển thêm nhiều đội du kích, thành lập những căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam Giải phóng quân, tổ chức Ủy ban quân sự cách mạng.
Đặc biệt, về mặt tổ chức chính quyền, chỉ thị nêu rõ:
“Thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở các nhà máy, mỏ, làng, ấp, đường phố, trại lính, trường học, công tư sở... Những ủy ban này vừa có tính chất mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật rộng rãi, vừa có ý nghĩa “tiền chính phủ” của đồng bào trong các xí nghiệp, các làng, ...
Thành lập “Ủy ban Nhân dân cách mạng” và “Ủy ban Công nhân cách mạng” ở những vùng quân du kích hoạt động.
Thành lập “Ủy ban Nhân dân cách mạng Việt Nam” theo hình thức một Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam” [23, tr. 371].
Ngày 16/04/1945, Tổng bộ Việt Minh ra một chỉ thị đặc biệt, chỉ đạo các địa phương thi hành tổ chức các Ủy ban dân tộc giải phóng. Chỉ thị nêu rõ: “Trong tình thế chính quyền đế quốc có chỗ tan rã, có chỗ không được ổn định như ở nước ta ngày nay. Ủy ban dân tộc giải phóng là hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân
Có thể bạn quan tâm!
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 2
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 3
- Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Mô Hình Nhà Nước Kiểu Mới Ở Việt Nam
- Nhà Nước Theo Thể Chế Dân Chủ Cộng Hòa Ở Việt Nam
- Xây Dựng Nhà Nước Của Khối Đại Đoàn Kết Dân Tộc Do Đảng Cộng Sản Lãnh Đạo
- Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 - 1946)
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
được học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng” [23, tr. 535]. Ủy ban dân tộc có thể tổ chức ra ở cơ sở đến toàn quốc. Cấp nào cũng có thể tổ chức ra Ủy ban dân tộc của cấp ấy. “Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (toàn quốc) tức là Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam” [23, tr. 535].
Trong các vùng giải phóng, các căn cứ địa cách mạng thì tổ chức Ủy ban nhân dân cách mạng do dân bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu hay do đại biểu hội nghị các giới bầu lên. Chính quyền ấy là một chính quyền dân chủ, chính quyền của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp ở Hiệp Hòa (Bắc Giang) từ ngày 15 đến ngày 20/04/1945 đã thảo luận và đề nghị triệu tập cuộc đại biểu đại hội gồm có các giới, các đảng phái, các thân sĩ toàn quốc để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam và tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam. Điều này đã thể hiện rõ tư tưởng và chủ trương tổ chức triệu tập Quốc dân đại hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh là rất sáng suốt và được sự nhất trí của Đảng và Mặt trận Việt Minh.
Tháng 05/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chuyển về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Ngày 04/06/1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh đã quyết định thành lập Khu giải phóng và Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng. Khu giải phóng chính thức được thành lập gồm: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận: Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng. Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã được thành lập. Ủy ban có nhiệm vụ lãnh đạo toàn khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Chính sách chung của Ủy ban lâm thời Khu giải phóng dựa vào Nghị quyết Hội nghị cán bộ Việt Minh ngày 04/06/1945 gồm ba điểm chính sau:
“1 - Tổng động viên nhân dân trong khu để kháng Nhật.
2 - Căn cứ vào điều kiện cụ thể và nhu cầu của cuộc kháng chiến mà thực hiện Chương trình Việt Minh. Kiến lập nền dân chủ cộng hòa và ban bố các quyền phổ thông đầu phiếu, tự do dân chủ, dân tộc tự quyết, nam nữ bình quyền.
3 - Cải thiện sinh hoạt cho nhân dân: bỏ sưu, bỏ thuế thân, vận động sinh sản…” [23, tr. 541].
Căn cứ vào chính sách chung đó, Ủy ban lâm thời Khu giải phóng đã được thực hiện kế hoạch củng cố Khu giải phóng về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hóa và xã hội... Hơn một triệu người trong Khu giải phóng bắt đầu được hưởng thành quả của cách mạng trên các lĩnh vực.
Ngày 01/07/1945, Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ ra lời kêu gọi quốc dân đồng bào: “Chính quyền cách mạng địa phương đã thành lập. Những Ủy ban nhân dân cách mạng, do các giới đồng bào trực tiếp cử lên, đang dùng những phương pháp cách mạng mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân... Hơn một triệu đồng bào đã bắt đầu được hưởng hạnh phúc cách mạng. Một nước Việt Nam mới đang nảy nở” [11, tr. 55].
Cao trào kháng Nhật cứu nước dâng lên khắp cả nước. Bộ máy chính quyền Nhật ở Đông Dương tiếp tục suy yếu. Nhiều căn cứ cách mạng mới tiếp tục được thành lập ở trung du và đồng bằng miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ngoài Khu giải phóng Việt Bắc còn có các chiến khu Đông Triều, chiến khu Vần - Hiền - Lương, chiến khu Hòa - Ninh - Thanh sau đổi thành chiến khu Quang Trung. Ở các địa phương cũng có những khu căn cứ của mình. Một phần Bắc Bộ đã thực tế đặt dưới chính quyền cách mạng. “Nước Việt Nam mới phôi thai từ đó” [13, tr. 348].
Theo dõi sát tiến triển của thời cuộc thế giới và trong nước, nhận định Chính phủ Nhật sắp đầu hàng quân đội Đồng minh, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim tê liệt, quân Anh và Tưởng đang rục rịch kéo vào Đông Dương, thực dân Pháp ráo riết quay trở lại nước ta… Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 13 đến ngày 15/08/1945), họp ở Tân Trào. Điều kiện khởi nghĩa ở nước ta đã chín muồi, cơ hội tốt giành quyền độc lập đã tới. Tình thế vô cùng khẩn cấp, Hội nghị quyết định phát động khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân đội Nhật.
Về nguyên tắc khởi nghĩa, phải tập trung lực lượng vào những nơi cần thiết để đánh chiếm những nơi chắc thắng không kể thành phố hay nông thôn, chiếm lấy
những căn cứ chính kể cả các đô thị trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta để tước vũ khí của quân đội Nhật. Thành lập những Ủy ban nhân dân ở những nơi ta làm chủ, thi hành 10 chính sách của Việt Minh.
Về ngoại giao, phải thi hành chính sách thêm bạn bớt thù, tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc, thân thiện, tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô và Mỹ, chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục lại địa vị thực dân cũ ở Đông Dương và âm mưu của quân phiệt Trung Quốc định chiếm nước ta. Song chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh. Tiếp đó, ngày 16, và ngày 17/08/1945, Đại hội đại biểu quốc dân họp ở Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Gần 60 đại biểu đại diện cho các đảng phái yêu nước, các đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo, có cả đại biểu từ Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ, Việt Kiều ở Lào và Thái Lan về dự đại hội. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương; thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng gồm 15 vị [Phụ
lục 3, tr. 133], do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam là Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam trước khi thành lập một chính phủ chính thức, thay mặt quốc dân để giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước.
Quốc dân đại hội Tân Trào là hiện thân của ý chí đoàn kết dân tộc, là “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại mới. “Quốc dân đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội… Quốc dân đại hội tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời chế độ Cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi cách mạng đã thành công. Đại hội thông qua chương trình 10 điểm này như là Hiến pháp lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [32, tr. 27]. “Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay” [61, tr. 595].
Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức mạnh dân tộc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập tự do bằng tổ chức
Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển xoay vận nước bằng phương thức khởi nghĩa vũ trang, xóa bỏ chế độ nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hòa dân chủ với cơ quan mang tính quyền lực cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Ủy ban dân tộc giải phóng do Đại hội đại biểu quốc dân lập ra.
Ngay sau đại hội, Hồ Chí Minh - Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng đã gửi hiệu triệu đến đồng bào toàn quốc: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ” [61, tr. 596]. Chính phủ lâm thời cũng đã có những hoạt động đầu tiên trong chính sách đối ngoại. Ngày 18/08/1945, Hồ Chí Minh gửi thư yêu cầu Liên hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình về quyền được hưởng dân chủ và độc lập của tất cả các dân tộc: yêu cầu chính phủ Pháp công nhận Chính phủ Việt Nam và nêu các điều kiện về mối quan hệ giữa nước Việt Nam mới với Pháp; đồng thời gửi thông điệp đến các cường quốc trong phe Đồng minh yêu cầu ủng hộ Ủy ban dân tộc giải phóng.
Thực hiện nghị quyết của Quốc dân đại hội Tân Trào, hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân cả nước từ miền núi, đồng bằng và đô thị triệu người như một nhất tề nổi dậy với ý chí dù có hy sinh đến đâu, cũng phải quyết giành cho được chính quyền trong toàn quốc.
Chỉ trong vòng 14 ngày, khởi nghĩa đã thành công trong cả nước, chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Chính quyền cách mạng được tuyên bố thành lập ở tất cả các địa phương: ngày 19/08 ở Hà Nội, ngày 23/08 ở Huế và ngày 25/08 ở Sài Gòn. Ở cấp kỳ, tối ngày 20/08, Ủy ban nhân dân lâm thời Bắc Bộ ra đời do Nguyễn Khang làm Chủ tịch. Chiều ngày 23/08, Ủy ban nhân dân lâm thời Trung Kỳ ra đời do Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch. Ngày 25/08, Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ ra mắt quần chúng Sài Gòn - Gia Định, do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch.
Trước tình thế đó và theo yêu cầu của Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, ngày 24/08/1945, Bảo Đại ra Tuyên cáo thoái vị để Chính phủ Dân chủ Cộng hòa điều khiển quốc dân. Tuyên cáo nêu rõ lúc này “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, tất cả các giai cấp, các đảng phái cho đến cả người Hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp
nhất mà ủng hộ triệt để Chính phủ Dân chủ Cộng hòa giữ vững nền độc lập của nước nhà”. Đối với cá nhân Bảo Đại “sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay… lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập” [82].
Chiều 30/08/1945, lễ thoái vị của Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn, đã được tổ chức tại lầu Ngọ Môn kinh thành Huế. Bảo Đại đọc Tuyên cáo thoái vị. Các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận thay mặt Chính phủ Trung ương tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại, nhận Quốc ấn bằng vàng và thanh gươm nạm ngọc của nhà vua giao nộp cho Chính phủ trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên - Huế.
Như vậy, sự ra đời của các Ủy ban dân tộc giải phóng, các khu giải phóng với các Ủy ban nhân dân chính là sự chuẩn bị về mặt tổ chức cho một chính quyền mới sẽ được thiết lập sau khi cách mạng thành công. Khu giải phóng Việt Bắc ra đời tháng 06/1945 chính là hình ảnh thu nhỏ của một nước Việt Nam mới. Đặc biệt, Quốc dân Đại hội Tân Trào được triệu tập sau Hội nghị toàn quốc của Đảng vào tháng 08/1945 thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa có thể coi như một hình thức tiền Quốc hội trong một chính quyền nhân dân. Tất cả những hoạt động chính trị thực tiễn ấy chuẩn bị mọi phương diện để khi giành được quyền lực nhà nước từ tay đế quốc, phong kiến, chính quyền mới có thể bước ngay vào quá trình hoạt động mà không mất quá nhiều thời gian cho việc xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy tổ chức nhà nước.
Sự tồn tại của các “hình thức tổ chức quá độ” trên đây là cần thiết của giai đoạn chuyển tiếp từ khởi nghĩa giành chính quyền bộ phận tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, phản ánh sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đúng như đồng chí Trường Chinh nhận xét: “Dùng Ủy ban nhân dân và Ủy ban giải phóng làm bước chuyển tiếp nhảy lên chính thể cộng hòa dân chủ, đó là một đặc điểm hết sức thú vị của chiến thuật cộng sản” [12, tr. 24]. Quá trình xây dựng các hình thức chính quyền quá độ đã đặt nền móng tiến tới thiết kế chính quyền dân chủ nhân dân sau khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
Tiểu kết chương 1
Như vậy, có thể khẳng định, quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thực chất là quá trình Người khảo sát, tìm kiếm, suy ngẫm về một mô hình nhà nước kiểu mới phù hợp với dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, sự ra đời và những hoạt động chính trị tích cực của Đảng Cộng sản suốt 15 năm từ 1930 - 1945 qua ba cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945 và một thời kỳ thoái trào 1932 - 1935 đã đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về kết hợp mục tiêu chiến lược với nhiệm vụ trước mắt, về tập hợp lực lượng, phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp… Sau nữa, nền chính trị nào đáp ứng được mục tiêu độc lập dân tộc, nền chính trị đó sẽ thắng thế. Nói cách khác, nền chính trị nào giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc, thực dân xâm lược, nền chính trị đó sẽ khẳng định được vị trí của mình trong xã hội Việt Nam. Đảng ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng những chủ trương đúng đắn đã đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới, liên kết nhân dân Việt Nam với nhân dân các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Tất cả tạo thành yếu tố quan trọng, sức mạnh khổng lồ làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vào mùa thu năm 1945.
Tóm lại, trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm nhằm tìm ra mô hình thể chế chính trị hợp lý ở Việt Nam, Đảng Cộng sản, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị, về nhà nước, về giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp và dân tộc vào điều kiện cụ thể của đất nước, khắc phục dần tư tưởng tả khuynh, giáo điều. Trải qua thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhận thức của Đảng về các thể chế, về đảng chính trị, về chính quyền nhân dân, về các đoàn thể cách mạng ngày càng sáng tỏ hơn. Sau những bài học về thiết lập thể chế Xôviết những năm 1930 - 1931 ở Nghệ Tĩnh, những thể nghiệm xây dựng chính quyền cách mạng ở các vùng giải phóng, Đảng ta khẳng định thể chế chính trị dân chủ cộng hòa là phù hợp nhất với điều kiện đất nước giai đoạn (1945 - 1946). Mặt trận Việt Minh là mô hình chính trị sáng tạo, là sự phát triển từ uy tín của một đoàn thể cách mạng lên vị thế của một chính quyền
nhân dân. Đây cũng là bài học xương máu: chính quyền phải dựa trên nền tảng sức mạnh của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, mọi hoạt động phải phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân, nhờ đó mới đứng vững và phát triển.
Với trí tuệ thiên tài của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, cùng với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhiều tiền đề khác được hội tụ đã làm sống dậy những truyền thống dân tộc. Đặc biệt, trải qua quá trình vận động cách mạng trong thực tiễn, tư duy chính trị về một nhà nước kiểu mới phù hợp với đặc điểm dân tộc Việt Nam đã hình thành trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh... biến chúng thành sức mạnh vô địch để làm nên một cuộc cách mạng long trời lở đất đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mà sản phẩm của nó là sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.