Hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Tây - 10


thông qua việc vừa đảm bảo được sự gia tăng của nguồn vốn với quy mô và tốc độ tăng trưởng cao, vừa đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng có tổng thu lớn hơn tổng chi, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước.

Để đạt được các kết quả trên, chi nhánh Hà Tây đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp huy động vốn hợp lý, bổ sung và hoàn chỉnh các quy chế theo hướng phát huy quyền chủ động sáng tạo của từng cá nhân và tập thể phòng ban trong chi nhánh. Trong thời gian vừa qua ngân hàng đã thực hiện một chính sách huy động mềm dẻo trên cơ sở phân tích các đối tượng khách hàng, các phân đoạn khách hàng để chăm sóc, phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng. Đồng thời mạng lưới huy động vốn không những ở địa bàn quận trú đóng mà đã mở rộng ra các quận, huyện lân cận, khu trung tâm thương mại, khu công nghiệp và các trường đại học. Thương hiệu của ngân hàng ngày càng có chỗ đứng tin cậy, vững chắc trong lòng khách hàng.

Công tác chỉ đạo điều hành của Ban giám đốc và các phòng Ban luôn xác định nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ trọng tâm số một đảm bảo cho sự hoạt động kinh doanh của Chi nhánh được ổn định, nó quyết định đến uy tín và hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh nên đã có nhiều giải pháp hữu hiệu, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tế, phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể đối với từng cấp lãnh đạo đến từng bộ phận nghiệp vụ và đến từng cá nhân là cán bộ công nhân viên chi nhánh. Từ nhận thức đó, tác phong giao dịch của mỗi cán bộ trong bộ phận này dần dần đã được nâng lên, đáp ứng được yêu cầu nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, Chi nhánh Hà Tây cũng rất quan tâm đến khách hàng, hàng năm tổ chức hội nghị khách hàng để qua đó nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của khách hàng, ý kiến đóng góp xây dựng của khách hàng về cách thức phục vụ, chất lượng dịch vụ của ngân hàng... Từ đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

Mặt khác, ngân hàng cũng tích cực mở rộng, tìm kiếm, phát triển thêm các khách hàng mới, khách hàng tiềm năng đồng thời đánh thức khách hàng ngủ quên, do đó đã tăng đáng kể số lượng khách hàng giao dịch với ngân hàng.


2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động huy động vốn của Chi nhánh còn nhiều hạn chế cần khắc phục để có thể tăng trưởng nguồn vốn huy động có hiệu quả theo định hướng hoạt động mà Chi nhánh đã đưa ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Thứ nhất: Hiệu quả huy động vốn giảm dần trong khi quy mô vẫn tăng trưởng tốt: NIM HĐV giảm dần trong 3 năm giảm 0,16% từ 1,74%/năm xuống còn 1,58%/năm dẫn đến tốc độ tăng trưởng thu nhập ròng từ huy động vốn thấp hơn tốc độ tăng trưởng quy mô huy động vốn. NIM HĐV của chi nhánh so với NIM HĐV bình quân của địa bàn Hà nội và của hệ thống đều thấp hơn.

Thứ hai: NIM HĐV các kỳ hạn dài, ổn định thấp hơn NIM HĐV các kỳ hạn ngắn không ổn định. NIM HĐV không kỳ hạn cao nhất nhưng nguồn vốn không kỳ hạn của chi nhánh chỉ chiếm từ 9,4-11,4% trong tổng nguồn vốn huy động.

Hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Tây - 10

Thứ ba: Tỷ trọng tiền gửi của tổ chức chiếm tỉ trọng nhỏ, đây là một bất lợi của chi nhánh vì nguồn tiền gửi của tổ chức là nguồn vốn có chi phí thấp giúp ngân hàng giảm chi phí huy động vốn và tăng thu nhập từ dịch vụ như: thanh toán, chuyển tiền, thu hộ, chi hộ,…Tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn nhưng lại có NIM HĐV thấp dẫn đến hiệu quả mạng lại cho chi nhánh chưa tương xứng với quy mô huy động.

Thứ tư : Sản phẩm huy động còn đơn điệu, chưa đa dạng. Các sản phẩm đặc thù có số dư rất nhỏ so với sản phẩm thông thường, các sản phẩm mới của BIDV triển khai nhưng thường là các sản phẩm mà các TCTD khác đã cung cấp trên thị trường. BIDV chưa có một sản phẩm mang tính riêng biệt, có tính cạnh tranh cao trên thị trường.

Để nguồn vốn huy động tăng trưởng cao, ổn định và đem lại hiệu quả kinh tế thì Chi nhánh cần phải đưa ra những biện pháp nhanh chóng, kịp thời để khắc phục những hạn chế nói trên.

2.4.2.2 Nguyên nhân

a. Nguyên nhân chủ quan


Chính sách lãi suất chưa linh hoạt, chủ động

Từ năm 2013 BIDV đã kiên định mục tiêu đẩy mạnh kế hoạch kinh doanh gắn với tuân thủ các chỉ đạo của Chính phủ, NHNN trong quản trị điều hành, đồng thời tiếp tục giữ vai trò tiên phong trong công tác triển khai các chính sách tiền tệ. Để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, BIDV thực hiện áp trần lãi suất huy động trên toàn hệ thống, mức trần lãi suất huy động trong những năm qua đã thấp hơn trần lãi suất quy định của NHNN. BIDV luôn là ngân hàng dẫn đầu trong việc giảm trần lãi suất theo yêu cầu của Chính phủ để giảm lãi suất cho vay, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Chi nhánh Hà Tây căn cứ mức trần lãi suất huy động của NHNN và BIDV trong từng thời kỳ để quyết định lãi suất huy động vốn tại chi nhánh. Giám đốc chi nhánh được TSC giao quyền chủ động quyết định chính sách khách hàng quan trọng trong phạm vi cho phép của TSC đây là một rào cản làm hạn chế cơ hội kinh doanh và hạn chế quyền quản trị của chi nhánh. Các chủ trương, chính sách đều do hội sở chính ban hành, chi nhánh thực hiện lập kế hoạch và triển khai cụ thể tại địa bàn theo các chỉ tiêu được giao. Chính sách điều hành lãi suất huy động và giá mua vốn FTP của TSC có nhiều thời điểm còn chưa linh hoạt, đi ngược với tín hiệu của thị trường nên đã ảnh hưởng đến công tác điều hành nguồn vốn của chi nhánh.

Chính sách lãi suất phụ trội của BIDV triển khai trong thời gian qua áp dụng cho đối tượng khách hàng quan trọng, khách hàng có số dư tiền gửi lớn để hạn chế nâng mặt bằng lãi suất huy động chung, giảm bớt chi phí nhưng các chi nhánh đã lợi dụng chính sách này để cạnh tranh nội bộ giữa các chi nhánh và ngày cả trong nội bộ một chi nhánh (các phòng giao dịch) đã đẩy lãi suất huy động lên cao làm tăng chi phí huy động, giảm NIM HĐV và tạo tâm lý nghi ngại cho khách hàng về tính thống nhất của cả hệ thống BIDV.

Hệ thống sản phẩm tiền gửi, dịch vụ chưa đa dạng

Danh mục sản phẩm huy động vốn và dịch vụ của BIDV tương đối đa dạng (gần 100 danh mục sản phẩm). Một số sản phẩm đã được thiết kế theo đối tượng khách hàng, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng như sản phẩm tiết kiệm dự


thưởng, tiết kiệm dành cho khách hàng quan trọng, các gói sản phẩm tín dụng và dịch vụ bán lẻ khác...Tuy nhiên BIDV vẫn thiếu sản phẩm chủ lực, thiếu sản phẩm khác biệt và đặc biệt. Sản phẩm huy động vốn chủ yếu là sản phẩm tiền gửi thông thường và dự thưởng, các sản phẩm đặc thù của BIDV không nhiều. Tại chi nhánh Hà Tây việc triển khai các sản phẩm dịch vụ kết hợp với sản phẩm huy động vốn do TSC ban hành vẫn còn thụ động, chưa chú trọng nâng cao chất lượng phát triển các sản phẩm huy động vốn và dịch vụ ngân hàng. Nhiều cán bộ còn chưa hiểu hết tính năng của sản phẩm dẫn tới việc tư vấn, tiếp thị khách hàng để phát triển dịch vụ còn hạn chế cũng làm ảnh huởng đến hiệu quả huy động vốn của chi nhánh.

Mặt khác các sản phẩm tiền gửi mới chỉ tập trung vào đối tượng cá nhân, chưa nghiên cứu xây dựng được nhiều sản phẩm tiền gửi chuyên biệt đối với các tổ chức kinh tế và định chế tài chính và các tiện ích gia tăng để thu hút vốn.

Các sản phẩm tiền gửi chưa tạo được sự khác biệt với các ngân hàng khác là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiệu quả huy động chưa cao.

Mạng lưới, kênh huy động vốn còn mỏng

Chi nhánh có Trụ sở tại 197 Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội và 09 phòng giao dịch là các điểm giao dịch kết nối giữa khách hàng và ngân hàng. Trụ sở chính của chi nhánh là tòa nhà 7 tầng nằm trên mặt đường giao thông chính tại trung tâm của quận Hà Đông rất khang trang và đầy đủ trang thiết bị phục vụ khách hàng đến giao dịch. Mạng lưới các phòng giao dịch của chi nhánh được đóng tại địa bàn quận Hà Đông, Thanh Xuân, Chương Mỹ. Tuy nhiên các điểm mạng lưới này vẫn tập trung chủ yếu tại Hà Đông.

Đối với các kênh huy động truyền thống: Mặc dù là một trong các chi nhánh tích cực triển khai các kênh huy động truyền thống tại các địa bàn trọng điểm; tuy nhiên, do nhiều yếu tố (như yếu tố lịch sử xuất phát là ngân hàng cấp phát chuyên trong lĩnh vực XDCB) nên việc các phòng/điểm giao dịch chủ yếu tập trung tại thị trấn hoặc khu công nghiệp (chủ yếu trên địa bàn Hà Đông), còn tại địa bàn các quận huyện khác như Thanh Xuân, Chương Mỹ thì mỗi nơi chỉ có 1 điểm giao dịch. Do đó việc triển khai các sản phẩm huy động vốn và phát triển các dịch vụ bán lẻ rất


hạn chế và kém sức cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh khác như Ngân hàng Công thương; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (là các ngân hàng có mạng lưới phân bố rộng rãi và đồng đều) hoặc với các đối thủ là các NHTM cổ phần đã triển khai đồng bộ tất cả các sản phẩm tại điểm giao dịch, rất thuận tiện trong việc đáp ứng nhu cầu đa dạng cho một khách hàng khi đến với ngân hàng.

Kênh huy động điện tử: Ngoài các kênh phân phối truyền thống là các điểm giao dịch, chi nhánh Hà Tây cũng có sản phẩm huy động vốn qua kênh điện tử dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại như sản phẩm tiền gửi Online. Tuy nhiên, sản phẩm này đang trong giai đoạn mới triển khai, khách hàng ít biết đến và yêu cầu khách hàng có hiểu biết và có thiết bị công nghệ, việc triển khai kênh huy động này một cách rộng rãi là khó khăn.

Hoạt động Marketing chưa hiệu quả

Công tác marketing của chi nhánh còn có khó khăn và hạn chế: cán bộ làm công tác truyền thông thương hiệu không chuyên trách, chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng làm công tác marketing. Kinh phí sử dụng cho các hoạt động quảng cáo truyền thông không nhiều, vì vậy việc triển khai thực hiện thông qua tổ chức sự kiện còn ít, hình thức tuyên truyền quảng bá chủ yếu vẫn là treo băng rôn tại điểm giao dịch, phát tờ rơi tại quầy. Việc tập trung tuyên truyền, tiếp thị, giới thiệu sản phẩm thông qua các cơ quan, doanh nghiệp khách hàng tổ chức chưa nhiều.

Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo sản phẩm chưa triệt để dẫn tới chưa khai thác hết các tính năng của sản phẩm, thông tin sản phẩm đến khách hàng chưa đầy đủ.

Hoạt động Marketing muốn phát triển cần có nguồn ngân sách nhất định, tuy nhiên chi nhánh bị hạn chế quyền hạn trong hoạt động chi tiêu nên Marketing chưa phát huy hết tác dụng.

Nguồn nhân lực còn tồn tại một số yếu kém

Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn. Đội ngũ cán bộ làm công tác huy động chính là bộ mặt của cả chi nhánh. Đánh giá của khách hàng về chất lượng ngân hàng, thường căn cứ trên đánh giá về nhân viên của ngân hàng đó.

Cán bộ làm công tác huy động vốn của chi nhánh có hầu như có trình độ từ đại


học trở lên, tuy nhiên do tuổi nghề còn trẻ nên chưa nắm bắt được hết công tác chuyên môn, phương hướng nhiệm vụ, kinh nghiệm ứng xử, kỹ năng giao tiếp còn non yếu. Nhiều cán bộ không thường xuyên cập nhật văn bản lãi suất FTP mua vốn của TSC nên khi huy động còn hướng khách hàng vào các kỳ hạn có chênh lệch NIMHĐV thấp, áp dụng chính sách lãi suất phụ trội phổ biến đối với cả khách hàng/giao dịch có quy mô HĐV nhỏ, với kỳ hạn gửi dài làm ảnh hưởng đến hiệu quả HĐV của chi nhánh.

Cán bộ tại phòng khách hàng doanh nghiệp vẫn coi trọng hoạt động tín dụng hơn huy động vốn, không sát sao kiểm tra, đôn đốc dòng tiền của các dự án cho vay dẫn đến nguồn vốn huy động của tổ chức kinh tế còn thấp.

Cơ chế khen thưởng đối với cán bộ huy động vốn tốt chưa tương xứng cũng như chế tài xử phạt với những cán bộ chưa tích cực chưa có là một trong những nguyên nhân khiến hiệu quả huy động chưa cao.

Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, chưa thực sự năng động. Đội ngũ cán bộ tuy còn trẻ và năng động, tuy nhiên một số cán bộ vẫn chưa nhận thức đúng đắn về công tác huy động vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng, vẫn có biểu hiện thụ động chờ khách hàng hoặc ngại tiếp xúc, tiếp cận với khách hàng. Số lượng cán bộ lãnh đạo khối các phòng giao dịch có tuổi đời khá lớn, nên phần nào tính năng động trong triển khai sản phẩm mới bị hạn chế. Mặc dù chi nhánh đã có chính sách ưu tiên, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trẻ, có năng lực vào một số vị trí cán bộ chủ chốt của các bộ phận, tuy nhiên số lượng cán bộ này còn chiếm tỷ lệ chưa nhiều.

Quy trình, thủ tục giao dịch gây phiền hà cho khách hàng

Chi nhánh là đơn vị tuân thủ quy trình nghiệp vụ do BIDV ban hành. Nhằm đảm bảo tính an toàn, trình tự thủ tục được TSC ban hành rất chặt chẽ, điều này đôi khi gây khó khăn cho nhân viên khi vừa phải làm đúng quy trình, vừa làm hài lòng khách hàng nhất là đối với nhóm khách hàng quan trọng. Sự phiền nhiễu trong thủ tục khi giao dịch tại chi nhánh khiến khách hàng có sự so sánh với thủ tục khi thực hiện tại các ngân hàng cổ phần khác, điều này là một cản trở lớn trong việc làm hài lòng khách hàng. Khi khách hàng không hài lòng, khả năng huy động vốn từ họ là


rất thấp.

Môi trường vật chất chưa được cải thiện nhiều:

Trong những năm gần đây, Chi nhánh đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho trụ sở chính của chi nhánh, các phòng giao dịch. Tuy nhiên, trong giao dịch vẫn chưa thực sự thuận tiện cho khách hàng, việc quá tải khách hàng vẫn xảy ra cục bộ, chưa khoa học vì chưa xếp số giao dịch tại các phòng giao dịch. Chi nhánh chưa bố trí được bộ phận nhân sự tiếp đón, giải thích, chỉ dẫn khách hàng khi đến giao dịch và phòng VIP giành cho các khách hàng lớn hoặc đem lại thu nhập nhiều cho ngân hàng tại các phòng giao dịch.

Các phòng giao dịch được thuê của tổ chức và cá nhân, nên việc cải tạo hoặc sửa chữa lớn bị hạn chế; do vậy, các phòng giao dịch chưa thực sự khang trang, chưa thuận tiện cho khách hàng trong giao dịch, chưa tạo được đặc trưng.

b. Nguyên nhân khách quan

Bên cạnh các nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng, hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả huy động vốn của BIDV Chi nhánh Hà Tây nói riêng còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình kinh tế xã hội và sự thay đổi của môi trường kinh tế vĩ mô.

Môi trường kinh tế xã hội

Giai đoạn 2013-2015, kinh tế vĩ mô Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức khó khăn, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế đã chững lại, hoạt động ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhiều doanh nghiệp còn khó khăn, năng lực tài chính còn thấp dẫn đến khó tiếp cận nguồn vốn, tình trạng thừa vốn tại các NHTM còn phổ biến, tổng cầu của nền kinh tế chưa được cải thiện đã gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của Ngân hàng đặc biệt là hoạt động huy động vốn.

Sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng khốc liệt trong công tác HĐV và cho vay (những khách hàng tốt thường yêu cầu lãi suất cho vay thấp/lãi suất huy động vốn cao) dẫn đến NIM ngày càng mỏng, hiệu quả co hẹp.

Việc kiểm tra, giám sát của chính phủ, NHNN về hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn chưa thường xuyên, xử lý trường hợp vi phạm chưa nghiêm khắc dẫn


đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng trong hoạt động huy động vốn.

Môi trường pháp lý

Trong những năm qua chính sách điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng của Nhà Nước chưa có sự nhất quán, thay đổi liên tục (chính sách mang tính chất giải pháp tạm thời và mệnh lệnh hành chính) do đó gây khó khăn trong xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh, đòi hỏi các NHTM phải liên tục cập nhật và có những điều chỉnh phù hợp.

Cơ chế chính sách pháp luật về ngân hàng còn một số bất cập, gây cản trở trong việc phát triển sản phẩm huy động vốn của các ngân hàng như chính sách trần lãi suất huy động, chính sách bảo hiểm tiền gửi...

Về phía Khách hàng

Tâm lý, thói quen sử tiền mặt trong thanh toán, giao dịch của người Việt Nam nói chung vẫn còn phổ biến. Người dân còn chưa hiểu biết nhiều về các dịch vụ ngân hàng, việc thanh toán qua ngân hàng còn hạn chế. Hơn nữa các mối quan hệ mua bán, trao đổi trên thị trường Việt Nam còn nhỏ lẻ và phân tán khiến cho việc áp dụng các phương tiện thanh toán hiện đại gặp nhiều khó khăn. Điều này làm cho người dân thích nắm giữ tiền mặt hơn là để vào ngân hàng khiến việc huy động tiền gửi thanh toán của ngân hàng bị hạn chế.

Thu nhập của dân cư trên địa bàn còn thấp hơn so với các quận nội thành cũ, nên công tác huy động vốn cá nhân tuy có sự phát triển so với năm trước nhưng so với một số chi nhánh lớn trên địa bàn vẫn chưa đạt như mong muốn.

Đối với khách hàng là doanh nghiệp: do ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế trong những năm qua nên hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, một số lượng doanh nghiệp phải giải thể, phá sản nên nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp ít chủ yếu là nguồn vốn tạm thời không ổn định.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 06/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí