một trong các nội dung mà các chủ thể phải khai báo tại thời điểm nộp hồ sơ. Tuy nhiên, việc xác định giá trị đối với tài sản trí tuệ dùng để góp vốn lại chưa có những văn bản quy định chi tiết, cụ thể. Việc định giá chủ yếu vẫn do các chủ sở hữu cùng thống nhất và cùng chịu trách nhiệm. Trên thực tế hiện nay, việc định giá tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp, trong đó có cả quyền sở hữu trí tuệ do các thành viên sáng lập định giá trên cơ sở nhất trí và phải chịu trách nhiệm về giá trị tài sản mà mình đã định giá hoặc mời tổ chức định giá để định giá. Pháp luật cũng chưa có một chế tài để kiểm định rõ ràng giá trị của tài sản. Pháp luật hiện nay, đang cho các doanh nghiệp được quyền thỏa thuận trong việc định giá tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung và quyền sở hữu trí tuệ nói riêng. Điều này, rất có thể tạo ra một nguồn vốn ảo của doanh nghiệp bởi việc tiến hành định giá quyền sở hữu trí tuệ cao hơn so với giá trị thực tế của nó. Việc này, nhà nước sẽ rất khó kiểm soát, đặc biệt là đối với quyền sở hữu trí tuệ - một tài sản vô hình thì việc xác định giá trị của tài sản này lại càng khó khăn.
Bốn là, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ. Theo quy định của luật doanh nghiệp, đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì khi góp vốn, người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho doanh nghiệp tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, đối với những quyền sở hữu trí tuệ được xác lập trên cơ sở đăng ký thì khi được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp chủ sở hữu phải tiến hành thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản đó cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về cơ quan quản lý việc đăng ký góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Điều này gây khó khăn cho các chủ thể và các cơ quan nhà nước trong việc quản lý góp việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Năm là, quy định về việc được chuyển nhượng, để thừa kế phần vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ và nhận lại quyền sở hữu trí tuệ đã góp vốn theo thỏa thuận hoặc khi kết thời hạn góp vốn là chưa thật sự phù hợp, đặc biệt là trong những trường hợp sau đây:
- Khi người góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ là thành viên hợp danh của công ty hợp danh thì ngoài phần vốn góp ra, thành viên hợp danh còn cần có uy tín cá nhân. Nếu người đó chết, thì người nhận thừa kế tài sản là phần vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ, có trở thành thành viên của doanh nghiệp hay không.
- Trong trường hợp góp vốn thành lập doanh nghiệp, người góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ là thành viên sáng lập. Khi hết thời hạn góp vốn theo thỏa thuận nhưng tình hình doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, tổng tài sản chưa tính giá trị quyền sở hữu trí tuệ không bảo đảm thanh toán các khoản nợ, việc rút phần vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ ra khỏi doanh nghiệp sẽ gây thiệt hại cho các chủ nợ, làm cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Sự thiếu vắng các quy định pháp luật về việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nêu trên, đã gây không ít khó khăn cho các chủ thể khi tiến hành việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Trong thực tế có những trường hợp góp vốn bằng danh tiếng. Tuy nhiên, danh tiếng không phải là một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và không được pháp luật bảo hộ. Các chủ thể còn chưa có sự hiểu thống nhất về quyền sở hữu trí tuệ.
Có thể bạn quan tâm!
- Thủ Tục Chuyển Giao Tài Sản Góp Vốn Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Và Trách Nhiệm Của Thành Viên Góp Vốn Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
- Hợp Đồng Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
- Thực Trạng Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Ở Việt Nam Hiện Nay
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 15
- Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung và pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói riêng ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Các đạo luật như: Bộ Luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ và nhiều đạo luật khác được ban hành và đã đi vào đời sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung và góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói riêng.
Tuy vậy, trước yêu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung và góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói riêng đã bộc lộ những hạn chế. Hệ thống các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp còn mang nhiều khiếm khuyết. Pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp liên quan đến nhiều ngành luật, nhiều văn bản pháp luật nhưng giữa chúng chưa có sự thống nhất, nhiều khi còn mâu thuẫn, chồng chéo. Nhiều quy định của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp trở nên lạc hậu do sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, hiện nay đã xuất hiện những loại hình sở hữu trí tuệ mới như tên miền internet.. mà pháp luật chưa có sự cập nhật.
Pháp luật Việt Nam còn bỏ ngỏ những quy định điều chỉnh hình thức góp vốn của thành viên doanh nghiệp và các thủ tục chuyển dịch vốn góp từ thành viên thành của doanh nghiệp.
Để thực hiện được các định hướng đã nêu trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, mà điển hình là những giải pháp sau đây:
3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể góp vốn, đối tượng và điều kiện góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay, các quy định của pháp luật về chủ thể có quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Luật doanh nghiệp 2005 mới chỉ có những quy định chung về quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nhưng đối với quyền sở hữu trí tuệ, đây là một loại tài sản vô hình đặc biệt, thì việc quy định của pháp luật về chủ thể có góp vốn thành lập doanh nghiệp là một vấn đề cần thiết. Bởi chỉ có thế mới có thể bảo đảm cho quyền lợi của chủ thể góp vốn và doanh nghiệp nhận góp vốn thành lập bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh đó, trong quyền sở hữu trí tuệ lại bao gồm: quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Trong quyền sở hữu công nghiệp lại có các đối tượng sáng chế/giải pháp hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu… Có những đối tượng do đặc điểm đặc thù của mình mà không thể sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Cũng có những đối tượng quyền sở hữu trí tuệ muốn được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Do đó, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ phải có những quy định cụ thể, rõ ràng về đối tượng, điều kiện góp vốn, quyền và nghĩa vụ của các bên góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
3.2.2 Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về việc xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ làm cơ sở cho việc định giá quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh nghiệp
Để định giá đúng và chính xác tài sản này, nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng Nhà nước cần phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ hơn về tài sản trí tuệ nói chung và quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, phân loại và ghi nhận tài sản trí tuệ.
Quy định phương pháp xác định giá trị tài sản trí tuệ. Theo hướng dẫn số 4 của Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế, có ba phương pháp để thẩm định giá tài sản vô hình. Cụ thể là phương pháp chi phí, phương pháp thu nhập và phương pháp thị trường. Tuy nhiên, việc áp dụng những phương pháp này không phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta. Bởi vậy, chúng ta cần phải xây dựng những phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình cho tương thích với hướng dẫn của Ủy ban thẩm định giá quốc tế và thông lệ quốc tế, nhưng phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam
3.2.3 Hoàn thiện các quy định về chứng từ và việc hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Về việc hoạch toán giá trị tài sản trí tuệ dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp nêu trên còn những điểm bất cập như căn cứ xác định nguyên giá của quyền sở hữu trí tuệ. Mà về quan điểm kế toán, doanh nghiệp phải có quyền kiểm soát đối với tất cả tài sản của mình. Do đó, về chế độ hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp, pháp luật cần cân nhắc đến việc xác định giá trị của tài sản này. Theo kiến nghị của tác giả, pháp luật có thể cho phép doanh nghiệp tự xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp để được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Đồng thời, để có thể hiện chính xác giá trị của tài sản này, hàng năm các doanh nghiệp cần được các tổ chức định giá xác định lại giá trị của các quyền sở hữu trí tuệ này.
3.2.4 Hoàn thiện quy định về hợp đồng thành lập doanh nghiệp nói chung và hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói riêng
Bộ luật dân sự cần phải có quy định về hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng, trong đó có
thỏa thuận về góp vốn. Hợp đồng thành lập doanh nghiệp tạo ra một thực thể pháp lý độc lập là doanh nghiệp và góp vốn là điều khoản cơ bản của hợp đồng này, tạo ra đặc thù của loại hợp đồng này so với các loại hợp đồng thông dụng khác.
Những nội dung chủ yếu của các quy định hợp đồng thành lập doanh nghiệp xoay quanh việc khai thác bản chất pháp lý của doanh nghiệp là quan hệ hợp đồng. Do đó, bao gồm các vấn đề giống với đối tượng nghiên cứu của nghĩa vụ là: khi nào và hoàn cảnh nào nghĩa vụ xuất hiện, các quy tắc cụ thể nào mà nghĩa vụ bị phụ thuộc, các hậu quả của việc không thực hiện nghĩa vụ và nghĩa vụ được thực hiện và thanh toán như thế nào. Tuy nhiên, vì chỉ là các quy định áp dụng cho hợp đồng thành lập doanh nghiệp, nên chỉ cần nêu được các đặc thù, các quy tắc chung của loại hợp đồng này. Cụ thể quy định về hợp đồng thành lập doanh nghiệp phải có tối thiếu các nội dung: một là, chỉ rõ bản chất pháp lý của hợp đồng thành lập doanh nghiệp và nêu lên những đặc điểm chính của hợp đồng; hai là nhiều người liên kết hay giao kết hợp đồng tạo lập ra một thực thể có mục đích thương mại; cùng nhau góp vốn vào thực thể đó dưới các hình thức góp vốn nhất định; nhằm mục đích kiếm lợi nhuận để chia nhau và cùng nhau chịu lỗ; hình thức của hợp đồng trong đó xác định rõ những trường hợp phải xác lập bằng văn bản và giá trị chứng cứ của văn bản này; thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bắt đầu của doanh nghiệp; các nguyên tắc, quy tắc giải quyết việc không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ góp vốn; xác định các nguồn pháp luật để tìm kiếm giải pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng.
Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự giữ vai trò quan trọng trong việc tạo khung pháp luật cho các giao lưu dân sự, kinh tế. Nhiều nội dung
trong chế định này được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh.
3.2.5 Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Trước hết, để tạo điều kiện cho các chủ đầu tư, trong đó có chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khai thác được tối đa lợi ích từ quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật cần quy định về điều kiện, thủ tục góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ theo hướng bảo đảm sự phù hợp và thông thoáng của các quy định này. Đồng thời, nên quy định việc người góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ được nhận lại quyền sở hữu trí tuệ khi hết thời hạn góp vốn với điều kiện việc rút quyền sở hữu trí tuệ không làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp, đồng thời cũng phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp (thành viên góp vốn không được rút vốn khỏi doanh nghiệp và không được giảm vốn điều lệ).
3.2.6 Hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ
Đối với doanh nghiệp với tư cách là một tổ chức kinh doanh thì tài sản là quyền sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng. Ngày nay, nhiều doanh nghiệp phải đầu tư để nghiên cứu hoặc mua quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành hình thức góp vốn quan trọng. Trên cơ sở đó, chúng ta cần có sự đầu tư thích đáng cho xây dựng và hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, quyền sở hữu trí tuệ chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý không phải chỉ là hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ mà còn bao gồm cả pháp luật hình sự, pháp luật hành chính, pháp luật thương mại, pháp luật tố tụng dân sự... Tức là việc hoàn thiện phải mang tính hệ thống và tính thống nhất trong cả hệ thống pháp luật. Pháp luật sở hữu trí tuệ phải có tính hệ thống, tính thống nhất, cần phải có những quy định những vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh;
các quy định rõ ràng, cụ thể; quy định phải tương thích với các công ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ mà chúng ta đã và sẽ là thành viên. Hơn nữa, các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ phải hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cả các chủ thể sáng tạo và các chủ thể có liên quan.
Các giải pháp thực hiện để hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, rà soát tất cả các văn bản pháp luật hiện hành về quyền sở hữu trí tuệ, các quy định pháp luật về cụ thể về sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở đó, xem xét, loại bỏ, sửa đổi, bổ sung quy định nào, văn bản nào.
Thứ hai, xây dựng và ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhưng lại được quy định chung chung trong Bộ Luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ đang phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Ví dụ: Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả; Việc sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.. Tránh tình trạng quy định trong Bộ luật và văn bản luật rằng “Chính chủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành” nhưng sau đó Chính phủ lại không ban hành văn bản hướng dẫn.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về trình tự, thủ tục khi sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc định giá quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn sẽ được định giá như thế nào. Xác định cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý việc đăng ký góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng như xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn.
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tổ chức thực hiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
3.3.1 Nâng cao năng lực quản lý và thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các cơ quan Nhà nước