Giao Thoa Trong Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người


Hình ảnh thực dân khi xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm cũng không đẹp đẽ gì. Đó là những kẻ cai trị cáo già với những lời nói in đậm màu sắc thực dân, đểu giả và vô trách nhiệm. Trước cuộc biểu tình của những người dân thiếu thuế, quan công sứ (Vỡ đê) với lời nói “uyển chuyển và trơn tru như nước chảy” tuyên bố: “Chính phủ bảo hộ bao giờ cũng chăm sóc tới dân quê”, “vì hết lòng thương xót tới nông dân cho nên mới trích tiền công quỹ cho dân vay mua mạ cấy tái giá, nay nông

dân không thấy mưa thì nên lễ

cầu đảo đi, chứ

ngài không biết làm thế nào…

Người dân có bổn phận đóng thuế”[Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1998)(sưu tầm, tuyển chọn), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, 2, Nxb Văn học, Hà Nội., Tập 2; tr 235]. Không những vô trách nhiệm, bọn chúng còn dung túng, bao che cho quan lại địa phương bóc lột dân nghèo. Chính vì vậy, dưới quyền quan công sứ (Giông tố) mới có những quan phủ, quan huyện phản động câu kết với tư sản làm giàu, che đậy tội ác, đàn áp dân nghèo. Viết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê trong thời kì Mặt trận Dân chủ, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã chĩa mũi nhọn vào kẻ thù trực tiếp của dân tộc với ý thức đả kích mạnh mẽ, toàn diện. Có thể là chưa mạnh mẽ bằng văn học vô sản, song cũng phơi bày bộ mặt thật của thực dân Pháp đang núp sau tấm lá chắn: tự do, bình đẳng, bác ái mà chúng dựng lên. Nghiêm khắc tố cáo, ngạo nghễ cười cợt, lớn tiếng phỉ báng cái xã hội cực kỳ lố lăng, ném đá vào một chế độ xã hội thối nát, như thế cũng là một cách bộc lộ lòng căm thù đối với bọn thống trị.

Với Nam Cao, nhà tù thực dân (dù chỉ được nhắc tới) trong truyện ngắn Chí Phèo cũng nói lên bản chất của chúng. Đó là nơi giam cầm những người dân lương thiện, tước đoạt quyền làm người và biến họ trở thành những “con quỷ”. Bao trùm trong sáng tác của ông là cuộc sống của những người lao động nghèo đang bị bần cùng hóa, tha hóa trong xã hội thực dân phong kiến. Ý nghĩa tố cáo thực dân được thể hiện sâu sắc trong ý thức tái hiện cuộc sống nghèo đói, ngột ngạt, không lối thoát của người lao động. Và bao hàm trong đó là khát vọng xóa bỏ xã hội đầy ung nhọt.

Đặc biệt, vào những năm cuối của giai đoạn 1930 - 1945, một số nhà văn hiện thực (Nam Cao, Tô Hoài) đã thấy được niềm tin, hy vọng vào một cuộc thay đổi vĩ đại của đất nước.


Hoạt động sáng tác dưới chế độ thực dân, chịu sự chi phối của chính sách văn hóa và chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo, văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực đã khéo léo thể hiện tình cảm của mình với đất nước và dân tộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

8.2. Giao thoa trong quan niệm nghệ thuật về con người

Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm của thi pháp học, là “sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị

Giao thoa nghệ thuật giữa hai khuynh hướng văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực thời kì 1932 - 1945 - 13

nghệ

thuật và thẩm mỹ

cho các hình tượng nhân vật trong đó”[Trần Đình Sử

(1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.; tr 55]. Là hình thức đặc thù thể hiện con người trong văn học nên quan niệm nghệ thuật về con người có cơ sở xã hội, lịch sử, văn hóa. Nó vừa là sản phẩm của lịch sử, văn hóa, chịu sự chi phối của lịch sử xã hội, văn hóa, vừa mang dấu ấn sáng tạo của nghệ sĩ. Vì vậy, phát hiện, nắm bắt được quan niệm nghệ thuật về con người giúp cho người đọc thấy được sự phát triển mang tính quy luật trong đời sống xã hội. Thấy được nét độc đáo không lặp lại cũng như chiều sâu tư tưởng khi chiếm lĩnh con người trong tác phẩm nghệ thuật.


Văn học hiện đại là văn học của thời kì con người cá nhân tư sản mới xuất hiện, thể hiện “ý thức cá tính của tác giả” cũng như “ý thức nghệ thuật tự giác trong các cương lĩnh trào lưu”[Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.; tr 73]. Khi nghiên cứu văn học trước 1945, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã phát hiện ba hiện tượng văn học với những quan niệm nghệ thuật về con người đáng chú ý: văn xuôi lãng mạn (xu hướng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn), Thơ mới và văn xuôi hiện thực. Ở cái nhìn khái quát, ông chỉ ra những nét khác biệt độc đáo, của các hiện tượng văn học này. Văn học lãng mạn với “quan niệm con người cá nhân và xung đột gia đình với khát vọng thoát ly... để thỏa mãn bản năng tự do” Đó còn là quan niệm nghệ thuật về con người gắn với đời sống nội tâm, với “thế giới cảm giác”. Văn học hiện thực xem con người là “sản phẩm của hoàn cảnh”, phải chịu sự tác động của hoàn cảnh [Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.; tr 73, 74]. Trong lý thuyết cũng như thực tế đời sống văn học, quan niệm nghệ thuật về con người là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn song nó cũng là sản phẩm của lịch sử xã hội, văn hóa. Dưới cái nhìn cụ thể, mỗi một nhà văn có một quan niệm nghệ thuật về con người riêng, độc đáo, không lẫn. Và giữa các hiện tượng văn học, các tác giả cũng có những yếu tố gặp gỡ, giao thoa trong quan niệm nghệ thuật về con người. Khi bàn về quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao - nhà văn tiêu biểu, xuất sắc nhất của trào lưu hiện thực phê phán chặng cuối (1940 - 1945), nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Nam Cao là tập đại thành của văn xuôi hiện đại trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông tiếp thu quan niệm con người cảm giác, ông chấp nhận con người bị tha hóa, dị dạng, nhưng ông cũng thấy con người ở nơi sâu thẳm vẫn còn giữ được tính người... vì vậy, tác phẩm của ông vừa đau đớn, vừa mạnh mẽ, nhức nhối”[Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.; tr 75].

8.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân


Con người cá nhân là yếu tố nổi bật trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực phê phán thời kì 1932 - 1945. Con người được biết đến với tư cách cá nhân, có vị trí tương đối độc lập với xã hội, được tự do thể hiện ước mơ, khát vọng, ham muốn riêng..., hay nói cách khác được khẳng định quyền làm người, quyền sống chính đáng của mình. Chính vì vậy, lí giải, cắt nghĩa con người với các mối quan hệ xã hội theo quan niệm con người cá nhân làm thay đổi toàn diện cách tiếp cận cuộc sống của nhà văn và mở ra cách nhìn mới, đa dạng và phong phú. Chú ý và khẳng định vai trò của con người cá nhân là bước chuyển biến lớn và góp phần mở ra những giá trị mới cho văn học, đưa văn học chuyển nhanh sang thời kì hiện đại.


Quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân chỉ có được từ sự bừng tỉnh ý thức cá nhân. Con người cá nhân ngoài xã hội đã đã trở thành hình tượng trung tâm trong văn học. Trong văn học lãng mạn nói chung và trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân là một trong những vấn đề quan trọng xuyên suốt quá trình sáng tác của khuynh hướng này. Khảo sát các nhân vật lí tưởng của Tự lực văn đoàn, từ cô Mai (Nửa chừng xuân) cho tới Trương (Bướm trắng), Cảnh (Thanh Đức), nhà nghiên cứu Lê Thị Dục Tú cho rằng: “Con người cá nhân có cả một lịch sử trình tự ý thức về mình: Từ con người cá nhân xã hội mang đậm màu sắc chính trị qua con người cá nhân lãng mạn lập dị đến con người cực đoan liều lĩnh”[Lê Thị Dục Tú (1994), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn qua ba tác giả Nhất Linh - Khái Hưng, Hoàng Đạo, Luận án P.T.S Khoa học Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.; tr 45]. Con người cá nhân được đặt trong cuộc đấu tranh giữa một bên đại diện cho tư tưởng mới với một bên là thành trì của cái cũ, cái lạc hậu. Chính vì vậy, nhân vật của văn xuôi Tự lực văn đoàn đấu tranh trên tinh thần tự ý thức về giá trị của cá nhân mình. Ý thức chống đối mạnh mẽ, không thỏa hiệp của những cô Mai, Loan khi họ nhận thức được phẩm giá cũng như giá trị người của họ đang bị đe dọa, bị chà đạp chứ không diễn ra theo kiểu “tức nước vỡ bờ”. Ý thức về cuộc sống với một quan niệm mới

xuất hiện ở những thanh niên của thời đại mới đã “trót nhiễm những tư tưởng

mới” luôn thường trực trong con người của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Đó có thể

là ý thức bảo vệ “quyền làm người”, bảo vệ nhân phẩm và danh dự (Mai - Nửa

chừng xuân, Loan - Đoạn tuyệt), cũng như quyền sống tự do, làm chủ mình “từ thể phách đến chí tâm hồn” (Tuyết - Đời mưa gió). Nhân vật Mai (Nửa chừng xuân), ngay từ những trang đầu của tác phẩm đã xuất hiện với ý thức về bản thân cũng như những giá trị của mình trong cuộc sống hiện tại. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn Mai vẫn luôn ý thức nhắc nhở mình và em phải sống cho đúng với lời trối trăng của người cha lúc lâm chung: “giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch và

đem hết nghị

lực ra làm việc”[Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ

(giới thiệu và

tuyển chọn) (2001), Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 1,2,3, Nxb Giáo dục, Hà Nội., Tập 2; tr 80]. Ý thức về mình, Mai biết mình là cô gái có nhan sắc và ngay cả trong lúc “mơ mộng” Mai vẫn thấy mình “Mai không già… Mai trẻ lắm... mới mười chín

cái xuân xanh… Mai cũng biết Mai trẻ, Mai đẹp… chỉ ngắm cái nét mặt khinh

khỉnh của mấy chị

em con bác phán, Mai cũng đủ

hiểu rằng Mai đẹp…”[Phan


Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (giới thiệu và tuyển chọn) (2001), Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 1,2,3, Nxb Giáo dục, Hà Nội., Tập 2; tr 85]. Là một cô gái hiểu biết, sinh ra trong gia đình gia giáo, Mai là người nhận thức rất rõ về ý nghĩa của cuộc sống, không chấp nhận đi theo lối mòn mà nàng biết chắc chắn: “Suốt đời làm nô

lệ”[Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (giới thiệu và tuyển chọn) (2001), Văn

chương Tự lực văn đoàn, tập 1,2,3, Nxb Giáo dục, Hà Nội., Tập 2; tr 87] khi nhã nhặn từ chối đề nghị của ông Phán (người bác trong gia đình). Rất cảm động trước hoàn cảnh và sự hi sinh của Diên (bán mình kiếm tiền nuôi em ăn học) song Mai cũng không chấp nhận cuộc sống đó khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Có thể khẳng định, ý thức về mình, về nhân phẩm trong suy nghĩ và hành động của Mai đã trở thành động lực sống mạnh mẽ. Và ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong cuộc đấu tranh với bà Án (mẹ Lộc) sau này. Với Loan trong Đoạn tuyệt, ý thức sẵn sàng đoạn tuyệt với cuộc sống gia đình cũng vang lên ngay từ đầu tác phẩm trong lời nói “giận giữ”, phản ứng trước tin một cô gái tự tử vì bị “mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi”: “… Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng…”[Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (giới thiệu và tuyển chọn) (2001), Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 1,2,3, Nxb Giáo dục, Hà Nội., Tập 1; tr 21]. Đây là phản ứng của một cô gái được theo học trường Tây, có quan niệm mới về cuộc sống, hạnh phúc gia đình. Nàng dám nói giọng cả quyết trước sự áp đặt nhân duyên của cha mẹ mình: “Thưa thầy me, thầy me cho con đi học, thầy me không thể cư xử với con như con vô học được nữa”. Quan niệm mới về “chữ hiếu” của Loan giờ đây không phải là sự phục tùng một cách “vô học” những lời nói hay sự áp đặt cuộc sống của cha mẹ, mà phải là cách xử sự của người “đã đi học”, phải “cư xử theo sự học”[ Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (giới thiệu và tuyển chọn) (2001), Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 1,2,3, Nxb Giáo dục, Hà Nội., Tập 1; tr 34]. Ý thức ngày càng sâu sắc về bản thân, về cuộc sống với niềm vui, nỗi buồn đã được khẳng định trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Quan niệm về con người cá nhân còn được thể hiện trong ý thức thể hiện những khát vọng, ham muốn cá nhân vượt thoát khỏi mọi ràng buộc. Quan niệm này được các nhà văn lãng mạn thể hiện qua các nhân vật mang khát vọng cải cách xã hội (Dũng trong Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Bảo


- Hạc trong Gia đình, Duy trong Con đường sáng) và các nhân vật sống với cái tôi tuyệt đối (Tuyết trong Đời mưa gió, Trương trong Bướm trắng, Cảnh trong Thanh Đức).

Quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân cũng là sản phẩm của thời đại và mang tính lịch sử nên ở mỗi khuynh hướng có một cách thể hiện riêng. Văn học

hiện thực phê phán tiếp thu và thể hiện trên bnh diện rộng, đan xen phức tạp của

nhiều yếu tố khác trong quan niệm nghệ thuật. Văn học hiện thực phê phán chú trọng tới việc tái hiện chân thực cuộc sống hiện thực, từ đó phê phán, phủ định hiện thực. Vì vậy, nổi bật trong tác phẩm hiện thực là quan niệm nghệ thuật về con người trên “tinh thần giai cấp”. Song khảo sát thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của những nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng hiện thực phê phán như Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, ta bắt gặp quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân đan xen với quan niệm về con người xã hội - giai cấp, con người “có nghĩa lý” và con người “vô nghĩa lý” trong ý nghĩa tồn tại của nó. Biểu hiện rõ nét nhất trong văn xuôi hiện thực quan niệm con người cá nhân là sự tự ý của cá nhân về cuộc đời, số phận cũng như băn khoăn, trăn trở trước hiện thực cuộc sống. Các nhân vật trí thức trong tác phẩm của Nam Cao luôn gắn với bi kịch cá nhân giữa một bên là khát vọng sống cao đẹp, hữu ích, được cống hiến với một bên là hoàn cảnh “áo cơm ghì sát đất” với nhịp sống mòn. Hộ (Đời thừa), Thứ (Sống mòn) là những nhân vật tiêu biểu cho kiểu người này. Luôn ý thức về giá trị nghề nghiệp (nghề văn), về mục đích cầm bút, luôn suy tư, dằn vặt về ý nghĩa cao cả hay thấp hèn của cuộc sống. Suy cho cùng là những biểu hiện của một quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân sâu sắc. Thứ trong Sống mòn của Nam Cao luôn thường trực trong mình khát vọng sao cho xứng đáng với danh hiệu con người: “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều... phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung”. Hộ cay đắng nhận ra mình “là một kẻ vô ích, một người thừa” vì “hắn chẳng đem đến một chút mới lạ gì cho văn chương”. Chiều sâu trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao không chỉ dừng ở sự thức tỉnh ý thức cá nhân mang ý nghĩa bản thể mà còn đặt nó trong ý thức cộng đồng.


Vũ Trọng Phụng là người đặc biệt quan tâm suy ngẫm về con người và cũng có quan niệm riêng nghệ thuật riêng, rất phức tạp. Bên cạnh quan niệm về con người trên “tinh thần giai cấp” còn là quan niệm về con người bản năng, con ngưởi tha hóa, con người “có nghĩa lý” và vô nghĩa. Xét đến cùng đó là quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân với các biểu hiện khác nhau. Sự trỗi dậy thái quá của đời sống bản năng là đặc điểm thường thấy trong nhân vật của Vũ Trọng Phụng. Từ các nhân vật tiêu biểu cho căn tính dâm đãng như Xuân tóc đỏ, Phó Đoan (Số

đỏ) đến những nạn nhân của xã hội như thị Mịch, Long (Giông tố) đều bị “sai

khiến” bởi dục tình hoặc luôn mang trong đầu những ám thị sau những tai biến “dâm sự”. Khi tác giả đề cao thái quá yếu tố này đã tạo ra những bất cập trong quá trình miêu tả, cắt nghĩa các hiện tương xã hội, nhưng chú ý tới “đời sống bản năng” đã thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người cá nhân. Ở một góc nhìn tương đối mới, khám phá đời sống bản năng và miêu tả nó như một yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách của con người là sự mở rộng, đào sâu cách nhìn về con người bởi “Ý thức về nhu cầu bản năng là biểu hiện của ý thức cá nhân”[Trần Đình Sử (1997), Sự thể hiện con người trong văn chương thời cổ, về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà nội.; tr171]. Cũng là vấn đề con người cá nhân, một số nhân vật trong tác phẩm của ông được miêu tả trên tinh thần ý thức sâu sắc về giá trị tồn tại của con người trong xã hội: con người “vô nghĩa lí”. Có thể Vũ Trọng Phụng chưa thể hiện sâu sắc cái nhìn về con người với tình trạng “vô nghĩa lí” trong xã hội cũ như sáng tác của Nam Cao sau này, song ý thức về con người cá nhân trong quan niệm về con người của Vũ Trọng Phụng đã mở ra cái nhìn mới, đa diện, nhiều chiều khi khám phá con người.

Con người được khám phá trên nhiều bình diện, nhiều góc độ từ đời sống xã hội tới đời sống cá nhân, từ đời sống bản năng đến đời sống tâm lí (đời sống nội tâm). Với nhận thức ngày càng sâu sắc về con người, các cây bút lãng mạn và hiện thực đã mạnh dạn tìm hiểu, mổ xẻ, khám phá đời sống nội tâm, khám phá phần “khuất lấp” khó nắm bắt của con người. Khám phá con người bên trong là cách tiếp cận mới, hiện đại, có chiều sâu về con người, trở thành mục đích hướng tới của các tác giả lãng mạn và hiện thực. Miêu tả thế giới nội tâm là một đặc điểm tiêu biểu của văn học hiện đại.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/11/2022