gia đã đạt kết quả tốt. Tính đến hết tháng 7/2017 toàn huyện đã có 18/22 trường chuẩn Quốc gia, đạt tỉ lệ 81,8%.
Đối với hoạt động dạy thêm học thêm, các đơn vị nhà trường đã thực hiện nghiêm túc, đúng quy chế, theo đúng công văn chỉ đạo của các cấp về công tác dạy thêm, học thêm, tạo được niềm tin từ phía nhân dân. 100% các trường đều xây dựng kế hoạch dạy thêm học thêm trong nhà trường được Phòng GD&ĐT, UBND các xã, thị trấn phê duyệt trước khi tổ chức thực hiện, học sinh có đơn đăng kí học thêm tại trường có xác nhận của phụ huynh học sinh. Các trường đều chỉ đạo giáo viên xây dựng khung chương trình dạy thêm, học thêm. Đa số học sinh được học thêm tại các nhà trường có sự quản lý chặt chẽ.
Trong những năm gần đây, công tác phân luồng hướng nghiệp, giáo dục nghề phổ thông cho học sinh ngày càng chặt chẽ hơn, nhằm giúp cho học sinh có thể định hướng tương lai, nghề nghiệp phù hợp với năng lực của bản thân.
Công tác phổ cập giáo dục THCS cũng là một vấn đề quan trọng trong ngành giáo dục. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ đó đã được Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII của Đảng xác định và được ghi trong Luật giáo dục năm 1998. Điều 10 của Luật giáo dục năm 1998 đã xác định phổ cập giáo dục với 3 nội dung:
Thứ nhất, Nhà nước quyết định kế hoạch và trình độ phổ cập, có chính sách đảm bảo các điều kiện để thực hiện phổ cập trong cả nước.
Thứ hai, mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập.
Thứ ba, gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên trong độ tuổi quy định của gia đình mình được học tập để đạt trình độ phổ cập.
Ngày 9/12/2000, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa việt Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo dục THCS, trong đó nhấn mạnh: Mục tiêu phổ cập giáo dục THCS giai đoạn 2000- 2010 là phải đảm bảo cho hầu hết thanh thiếu niên sau khi tốt nghiệp Tiểu học tiếp tục
học tập để đạt trình độ Trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Ngày 3/5/2001, Tỉnh ủy Bắc Ninh banh hành nghị quyết 01- NQ/TU về công tác phổ cập giáo dục THCS với mục tiêu cụ thể là: “Phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục THCS với chất lượng cao”.
Với huyện Quế Võ, trong giai đoạn đầu, công tác phổ cập giáo dục còn gặp nhiều khăn về vấn đề rà soát cũng như tổng hợp, song đến năm 2017, toàn huyện đã đạt mức độ 3, xóa mù chữ đạt mức độ 2 vững chắc.
Có thể bạn quan tâm!
- Giáo Dục Trung Học Cơ Sở Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 1997- 2017
- Sự Phát Triển Số Lượng Giáo Viên Thcs Giai Đoạn (1997- 2017)
- Bảng Thống Kê Xếp Loại Học Sinh Lớp 9 Tốt Nghiệp 2013- 2017
- Giáo dục Trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh 1997 - 2017 - 11
- Giáo dục Trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh 1997 - 2017 - 12
- Giáo dục Trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh 1997 - 2017 - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Để ngành giáo dục có thể phát triển, không thể không nhắc tới công tác xã hội hóa giáo dục. Đây được coi là con đường phát triển tất yếu cho giáo dục, đồng thời còn là con đường để thực hiện dân chủ hoá nhà trường với mục tiêu vận động mọi người, huy động mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục. Trong những năm gần đây, công tác xã hội hoá giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh góp phần tích cực trong việc động viên, khuyến khích các giáo viên và học sinh giỏi, hỗ trợ những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn vươn lên trong học tập.
Bên cạnh những mặt tích cực, công tác xã hội hóa giáo dục của huyện vẫn còn tồn tại một số bất cập, mà tiêu biểu là sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa thực sự chặt chẽ, sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể cũng chưa có sự nhịp nhàng, dẫn tới hiệu quả của công tác xã hội hóa chưa cao.
Như vậy, cùng với sự quan tâm của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện, của Sở GD&ĐT, sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân trong huyện cùng với những kết quả đạt được trong 20 năm qua, ngành GD&ĐT huyện Quế Võ tiếp tục phát huy những mặt mạnh, khắc phục những hạn chế, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm trong các năm học tiếp theo nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tiểu kết chương 2
Qua quá trình nghiên cứu sự phát triển giáo dục THCS huyện Quế Võ từ năm 1997 đến năm 2017, chúng ta thấy rằng, giáo dục THCS huyện Quế Võ đã đạt được nhiều thành tích nổi bật. Quy mô trường lớp ngày càng được mở rộng, hoàn thiện, 100% là những trường học cao tầng, đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong địa phương. Cơ sở vật chất cũng ngày càng hoàn thiện, đầy đủ, khang trang hơn, các phòng bộ môn được sử dụng, nâng cao khả năng, thực hành, sáng tạo cho học sinh. Cảnh quan sư phạm trường học hướng tới “xanh - sạch - đẹp”. Để có được những điều đó, công tác xã hội hoá giáo dục đã đóng một vai trò rất quan trọng, và đây cũng là vấn đề được các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân thực sự quan tâm.
Tuy nhiên, để góp phần vào sự phát triển của giáo dục, không thể không nhắc đến đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Đội ngũ cán bộ, giáo viên trong các nhà trường đi từ chỗ thiếu, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao đến đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Năng lực chuyên môn của giáo viên, năng lực quản lý của các cán bộ quản lý không ngừng được củng cố và hoàn thiện hơn.
Chính vì những điều kiện thuận lợi đó, chất lượng giáo dục toàn diện của huyện không ngừng tăng lên, kể cả chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn.
Mặc dù vậy, như đã nêu ở trên, giáo dục THCS của huyện vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế về đội ngũ quản lý; về giáo viên giáo: bằng cấp cao nhưng nhưng lực cũng như kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế, những chính sách ưu đãi cho giáo viên chưa kịp thời nên xuất hiện tình trạng giáo viên vừa dạy học vừa kinh doanh buôn bán, thậm chí coi nghề dạy là nghề phụ vẫn tiếp tục gia tăng; sự xuống cấp của đạo đức học sinh, vấn đề dân chủ trong trường học...
Do đó, muốn nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, các cấp ủy đảng, ban ngành, đoàn thể, phòng giáo dục phải có sự phối kết hợp với các nhà trường, địa phương để khắc phục được những mặt hạn chế, phát huy những tiềm lực của ngành giáo dục, đưa ngành giáo dục Quế Võ sánh ngang với những huyện phát triển khác của tỉnh để huyện Quế Võ thực sự là huyện giàu mạnh, văn minh.
Chương 3
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH (1997- 2017)
3.1. Những thành tựu đạt được
Qua quá trình nghiên cứu về giáo dục THCS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997- 2017, có thể thấy rằng trong 20 năm qua, giáo dục THCS đã đạt được rất nhiều thành tựu, trong đó nổi bật về:
Quy mô phát triển: Ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Quế Võ luôn nhận được sự quan tâm, đầu tư của cáp cấp, ban ngành, đoàn thể trong huyện. Trong giai đoạn mới tái lập tỉnh, do tác động của tình hình kinh tế- xã hội, ngành giáo dục vẫn còn gặp phải một số khó khăn nhất định: về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, học sinh.... Nhưng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh, phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Quế Võ đã kịp thời khắc phục những khó khăn trước mắt và đề ra những biện pháp, chính sách cụ thể nhằm phát triển lâu dài cho ngành giáo dục. Tuy nhiên, để có thể đạt được kết quả đó, không thể không nhắc tới sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và sự quyết tâm vươn lên trong học tập của học sinh huyện Quế Võ. Bởi vậy, trong 20 năm qua (1997- 2017), chất lượng giáo dục THCS của huyện không ngừng tăng lên, đưa giáo dục của huyện nhanh chóng trở thành một trong những huyện phát triển nhất tỉnh Bắc Ninh.
Đối với mạng lưới trường lớp ở Quế Võ cũng rất được quan tâm và phát triển. Tính đến năm 2017, với 22 trường, 283 lớp học đã đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong huyện. Và hầu hết, các trường đều đã được đầu tư hệ thống bảng tương tác, máy tính, máy chiếu... để phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Cảnh quan trường học cũng được chú ý, đầu tư phát triển. Với phương châm “Đổi mới cảnh quan sư phạm trường học” và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, Phòng GD&ĐT cũng đã tích cực
tham mưu với Huyện ủy - UBND huyện chỉ đạo các địa phương đầu tư cơ sở vật chất, cảnh quan sư phạm nhiều đơn vị khá khang trang, đảm bảo an toàn cho học sinh, tạo điều kiện cho các em yêu lớp, yêu trường hơn. Từ đó, có thể nhận thấy được sự quan tâm, sát sao, kịp thời của lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể, sự ủng hộ, sự phối hợp của nhân dân địa phương trong việc xã hội hóa giáo dục, làm cho chất lượng giáo dục trong huyện được nâng lên nhanh chóng.
Về xây dựng cơ sở vật chất: Như đã phân tích ở trên, trong những năm qua, ngành giáo dục đã đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng cơ sở vật chất và cảnh quan sư phạm trường học. Đồng thời với đó là việc xây dựng các phòng học, phòng chức năng cũng đã và đang được quan tâm xây dựng. Thiết bị dạy học ngày càng được quan tâm đầu tư nhiều hơn cho các trường Trung học cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu của các bộ môn: Sinh Học, Vật Lý, Hóa Học, Địa Lý, Lịch Sử, Tin Học, Tiếng Anh... Hằng năm, các trường THCS đều tổ chức kiểm kê, đánh giá việc sử dụng cơ sở vật chất. Các trường THCS và các cấp quản lý giáo dục đã thực hiện tốt các quy định về quản lý tài sản theo Luật tài sản về các nội dung kiểm kê tài sản, tự kiểm tra, kiểm tra quản lý cơ sở vật chất trường học. Việc lập kế hoạch quản lý cơ sở vật chất trường học được các cấp quản lý giáo dục quan tâm sát sao. Điều đó giúp các cấp quản lý giáo dục có thể đánh giá được việc ứng dụng, sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên: sử dụng nhiều hay ít, có đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy... qua đó có tạo được hứng thú học tập cho học sinh hay không. Nhờ vậy, các nhà quản lý giáo dục sẽ có những biện pháp điều chỉnh, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường nói riêng, của giáo dục THCS huyện nói chung.
Với đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh: Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, ngành học luôn dược các cấp quản lý giáo dục quan tâm, đảm bảo, bố trí đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, tâm huyết, trách nhiệm và có năng lực chuyên môn vững vàng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Hàng năm, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo luôn yêu cầu các nhà trường phải tích cực đổi
mới phương pháp dạy học, tham gia Hội thi giáo viên dạy giỏi, góp phần thúc đẩy phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong toàn ngành. Đồng thời, Sở Giáo dục và Đào tạo đã mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng công tác chính trị tư tưởng cho 100% giáo viên và cán bộ quản lý. Vì vậy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ và giáo viên hiện nay luôn đạt chuẩn và trên chuẩn; đạo đức nghề nghiệp được nâng cao, đảm bảo đủ biên chế giao viên cho các ngành học, cấp học.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, chúng ta phải khẳng định rằng đây là một bộ phận quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công của giáo dục huyện Quế Võ nói riêng cũng như ngành giáo dục và đào tạo nước ta nói chung. Họ là những người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý, trình độ chuyên môn vững vàng. Thêm vào đó, họ cũng là những người có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm, sự hiểu biết với kiến thức xã hội sâu rộng. Từ thực tiễn cho thấy đội ngũ cán bộ quản lý các trường THCS của huyện Quế Võ trong những năm qua đã phần nào đáp ứng được yêu cầu về công tác.
Đội ngũ giáo viên cũng có sự phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Từ chỗ giáo thiếu giáo viên vào những năm đầu thế kỉ XXI (do cuộc sống khó khăn, một bộ phận giáo viên đã chuyển nghề hoặc bỏ nghề), cho đến năm 2017, trên cơ bản tình trạng này đã được khắc phục. Hiện nay, các trường đều đã có đủ số giáo viên để đáp ứng nhu cầu dạy và học trong trường. Chất lượng giáo viên ngày càng được khẳng định hơn trước về trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ. Trước kia, để đáp ứng việc dạy học khối THCS, giáo viên chỉ cần tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm là được. Nhưng ngày nay, 100% giáo viên dạy khối THCS đã tốt nghiệp các trường Đại học Sư phạm và có nhiều giáo viên đã đạt trình độ Thạc sĩ. Không chỉ trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên được nâng lên mà kiến thức liên ngành cũng ngày càng được củng cố. Để có thể thi tuyển vào các trường, giáo viên cần phải có kiến thức cơ bản về Tiếng Anh, cũng như Tin học. Hàng năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh và Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Quế Võ cũng thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng để nâng cao
trình độ nhận thức chính trị cũng như kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên. Từ đó có thể thấy rằng, ngành giáo dục của huyện nói chung cũng như giáo dục THCS nói riêng đã nhận được sự đầu tư, quan tâm rất lớn từ UBND huyện, Sở, phòng giáo dục và đào tạo, các ban ngành đoàn thể.
Thêm nữa, đội ngũ cán bộ giáo viên trẻ của huyện Quế Võ ngày càng chiếm đa số. Họ là đội ngũ trẻ, khỏe, năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc, dễ dàng nắm bắt được sự thay đổi của nền giáo dục mới. Cho nên có thể nhận định, đây chính là thuận lợi vô cùng lớn của giáo dục THCS huyện Quế Võ.
Về học sinh, cũng như giáo viên, số lượng và chất lượng của học sinh cũng không ngừng tăng lên. Xã hội ngày càng phát triển, đầu tư cho giáo dục ngày càng được quan tâm. Trước đây, do hoàn cảnh gia đình, nhiều học sinh đã phải bỏ học, thậm chí là không được đến trường. Nhưng hiện nay, theo ước tính 100% học sinh được đến trường đi học theo đúng độ tuổi. Các em học sinh được học tập trong điều kiện thuận lợi với cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, cảnh quan trường học khang trang, sạch sẽ, phục vụ cho nhu cầu học tập, giải trí, nghiên cứu của các em. Quan trọng hơn cả là trong môi trường xã hội cạnh tranh ngày nay, học sinh cần phải cố gắng hơn nữa trong học tập, phấn đấu đạt thành tích cao, để trở thành con ngoan, trò giỏi. Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, trong giai đoạn 1997- 2017, thành tích học tập của học sinh không ngừng nâng lên. Trong giai đoạn từ 2013- 2017, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THCS luôn đạt 97% trở lên, cao nhất là năm 2017, tỷ lệ học sinh đỗ tốt đạt 98,43%.
Sau khi đỗ tốt nghiệp, phần lớn học sinh tiếp tục học lên THPT, số ít đi học nghề hoặc 1 số thì ở nhà đi làm việc phụ giúp gia đình.
Chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục là vấn đề đặc biệt được lãnh đạo các nhà trường, ngành giáo dục và đào tạo cũng như lãnh đạo huyện quan tâm. Mặc dù giai đoạn đầu còn gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, ban ngành, sự cố gắng của ngành giáo dục và đào tạo, của các cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên nhân viên trong nhà trường, đặc biệt là sự nhận
thức, vươn lên từ chính bản thân học sinh, chất lượng giáo dục hai mặt của học sinh không ngừng được nâng lên qua các năm.
Về học lực: Số học sinh được xếp loại học lực khá giỏi hằng năm tăng dần, yếu, kém giảm dần. Trước năm 1997, tỷ lệ học sinh khá, giỏi chỉ đạt 12-13%, nhưng sang tới năm 2000- 2001, số lượng đó đã tăng tới 47,8% và đến năm 2017 đã tăng lên tới 61,2%. Tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban cũng ngày càng giảm. Năm 2001 tỷ lệ học sinh bỏ học và lưu ban là 0,8%, đến năm 2002 còn 0,6% và đến năm 2014 giảm còn 0,06%, năm 2017 là 0,12% Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm luôn luôn đạt trên 97%.
Chất lượng giáo dục mũi nhọn cũng tăng theo các năm. Điều đó được thể hiện rõ nét thông qua kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh mà tiêu biểu nhất là giải cấp tỉnh. Hằng năm, bình quân có khoảng 40-45 em được công nhận là học sinh giỏi cấp tỉnh. Không chỉ vậy, trong các kỳ thi khác cấp tỉnh, học sinh cũng đạt nhiều giải cao: Thi vận dụng kiến thức liên môn; Thi Tin học trẻ không chuyên; Thi Thể dục thể thao. Và trong năm 2017, huyện Quế Võ rất vinh dự khi có 8 em học sinh đạt giải Quốc gia cuộc thi Olympic tiếng Anh qua mạng, giải toán và giải toán bằng tiếng Anh qua mạng; hay như cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 46, học sinh THCS huyện Quế Võ đã đạt giải ba và đây cũng là học sinh đạt giải cao nhất tỉnh. Sự chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục và đào tạo trong những năm qua đã góp phần đảm bảo các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trên nền chất lượng đại trà, chất lượng mũi nhọn được quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đội ngũ giáo viên giỏi, học sinh giỏi- nhân tài của đất nước sau này.
Ngoài việc quan tâm tới chất lượng học lực của học sinh, chất lượng giáo dục đạo đức cũng luôn được các nhà trường và ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Đây là nhiệm vụ song hành được đặt ra cùng với nhiệm vụ nâng cao chất lượng các bộ môn văn hoá. Việc giáo dục đạo đức cho học sinh không chỉ được lồng ghép trong giờ dạy các môn văn hóa trên lớp, mà giáo viên chủ nhiệm cũng thường xuyên phải giáo dục học sinh qua các buổi chào cờ thứ 2 đầu tuần, hoạt động ngoài giờ