hiện nhiệm vụ của Quân đội trong thời kỳ mới. Do vậy, việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp GDPL cho học viên phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong thời kỳ mới; bám sát và hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào tạo của từng trường sĩ quan. Trong quá trình GDPL cho học viên phải thấy rõ mối quan hê giữa đức và tài, thấy rõ yêu cầu thường xuyên cũng như tính cấp bách trong
nâng cao trình độ VHPL cho học viên đào taị si ̃ quan hiện nay. Kết hợp chặt chẽ giữa GDPL với giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục quân sự, giáo dục thẩm mỹ... kết hợp nâng cao trình độ VHPL với nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác; kết hợp bồi dưỡng tri thức pháp luật với bồi dưỡng các giá trị VHPL, phương pháp, tác phong công tác và nâng cao ý
thức tổ chức kỷ luật.
Hai là, GDPL cho học viên phải thiết thực, phù hợp với đặc điểm người học, với thực tiễn hoạt động giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường, chính quy, tiên tiến, mẫu mực.
Đây là yêu cầu quan trọng bảo đảm quá trình GDPL cho học viên, thiết thực, cụ thể, phù hợp với đặc điểm người học, với thực tiễn hoạt động giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực. Học viên đào tạo trong các trường sĩ quan có nhiều đối tượng khác nhau, mỗi đối tượng có đặc điểm riêng, thực tiễn hoạt động giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường luôn có sự phát triển. Do vậy, việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ phải căn cứ vào trình độ nhận thức, kinh nghiệm và yêu cầu đào tạo của đối tượng cụ thể, của từng năm học, khoá học. Thường xuyên coi trọng việc nâng cao hiệu lực, tác dụng giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ý thức pháp luật của người học thông qua giáo dục, đào tạo và bằng thực tiễn giáo dục, đào tạo, duy trì kỷ luật và thi hành kỷ luật ở đơn vị học viên, xây dựng đơn vị vững mạnh, toàn diện, xây dựng nhà trường
chính quy, tiên tiến, mẫu mực. Hoạt động của học viên rất phong phú: trên giảng đường, bãi tập, thực hành diễn tập, dã ngoại, về các đơn vị thực tập và thực hiện các nhiệm vụ xây dựng đơn vị, sẵn sàng chiến đấu...mỗi hoạt động, mỗi nhiệm vụ đều có những quy định và yêu cầu riêng đối với người học viên. Vì vậy, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, thông qua các hoạt động đó mà GDPL cho học viên, đồng thời thông qua kết quả thực hiện các nhiệm vụ, các chế độ mà kiểm tra đánh giá, uốn nắn những nhận thức, hành vi lệch lạc, sai trái, vi phạm pháp luật, kỷ luật cho học viên.
Ba là, GDPL cho học viên đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp, đề cao trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng.
Các tổ chức, lực lượng có vị trí, vai trò khác nhau, song cùng thực hiện mục tiêu, yêu cầu xuyên suốt của quá trình đào tạo của nhà trường quân đội là hình thành phẩm chất nhân cách người sĩ quan. Do vậy, từ cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy đến tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân; từ đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đến đội ngũ phục vụ đều phải có trách nhiệm thực hiện. Mặt khác, chấp hành nghiêm túc, triệt để pháp luật Nhà nước, kỷ
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Về Đội Ngũ Cán Bộ Thực Hiện Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Trong Các Trường Sĩ Quan Quân Đội
- Những Nguyên Nhân Cơ Bản Của Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trong Hoạt Động Giáo Dục Pháp Luật Cho Học Viên Các Trường Sĩ Quan Quân Đội
- Quán Triệt Các Quan Điểm Của Đảng Về Giáo Dục Pháp Luật
- Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 12
- Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 13
- Giáo dục pháp luật cho học viên các trường sĩ quan quân đội ở Việt Nam hiện nay - 14
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
luật của Quân đội là yêu cầu thuộc phẩm chất đạo đức của người học viên đào tạo sỹ quan, nên phải do chính mỗi học viên nỗ lực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu thường xuyên.
Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên có chủ trương, biện pháp GDPL cho học viên, thông qua hệ thống tổ chức và vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên đưa các chủ trương, biện pháp đó vào thực tiễn hoạt động của đơn vị, lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, các lực lượng tiến hành tốt hoạt động GDPL.
Chính ủy, chính trị viên và cán bộ chỉ huy các cấp phải cụ thể hóa chủ trương, biện pháp lãnh đạo thành kế hoạch công tác của đơn vị, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả hoạt động GDPL. Phát huy vai trò của
cơ quan chức năng (trực tiếp là Phòng Đào tạo và cơ quan Chính trị) phối hợp, hiệp đồng, chỉ đạo chặt chẽ quá trình bồi dưỡng GDPL.
Các lực lượng có liên quan đề cao trách nhiệm, thực hiện tốt các nhiệm vụ được phân công; thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên tự học tập nâng cao trình độ VHPL.
Bốn là, phải đề cao tính chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự GDPL của học viên .
Trong các trường SQQĐ học viên vừa là đối tượng của quá trình giáo dục, vừa là chủ thể trong quá trình tự giáo dục nâng cao VHPL. Hoạt động GDPL chỉ có thể đạt được kết quả khi học viên có động cơ, nhu cầu tiếp nhận đúng đắn, thể hiện ở tính tích cực, chủ động trong quá trình bồi dưỡng. Học viên phải năng động, sáng tạo, tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, tự
rèn luyện nâng cao trình độ VHPL. Lãnh đao chỉ huy và cơ quan chức năng
luôn theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để khắc phục kịp thời những bất cập về nội dung, hình thức biện pháp bồi dưỡng, tích cực đấu tranh khắc phục biểu hiện trung bình chủ nghĩa, lười học, ngại rèn của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở các trường SQQĐ.
3.2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao GDPL cho học viên ở các trường SQQĐ trong giai đoạn hiện nay
* Một số giải pháp chung
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về quốc phòng tạo môi trường thuận lợi để đưa pháp luật đi vào cuộc sống và GDPL cho học viên
Một hệ thống pháp luật ra đời xuất phát từ nhu cầu của xã hội, hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng chéo, mâu thuẫn sẽ tự mình có sức mạnh để đi vào cuộc sống, được xã hội chấp nhận, thừa nhận và tuân thủ.
Pháp luật về quốc phòng là hệ thống các quy tắc xử sự diều chỉnh các hoạt động thuộc lĩnh vực quốc phòng, “thể chế hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân” [20,tr.40], xây dựng Quân đội, tổ chức và quản lý các hoạt động quân sự cụ thể và quản lý cán bộ, chiến sĩ trong việc thực hiện đúng các nhiệm vụ công tác.
Từ quan niệm trên cho thấy pháp luật về quốc phòng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mục tiêu xây dựng Quân đội, đối với việc tổ chức các hoạt động quân sự có hiệu lực, hiệu quả. Đối với GDPL trong các trường SQQĐ, pháp luật về quốc phòng có vai trò cụ thể như sau:
- Là cơ sở pháp lý hữu hiệu cho việc xác lập và bảo đảm trên thực tế các quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong hoạt động GDPL;
- Là cơ sở hoàn thiện nội dung, chương trình GDPL về quốc phòng
- Là cơ sở thuận lợi cho việc phối hợp giữa các trường SQQĐ với các cơ quan hữu quan khác trong GDPL;
- Góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho chủ thể và đối tượng GDPL.
Với những vai trò trên cho thấy, việc hoàn thiện pháp luật về quốc phòng là hết sức cần thiết, phải được tiến hành thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, xuất phát từ mục tiêu và thực trạng công tác GDPL trong các trường SQQĐ, việc hoàn thiện pháp luật về quốc phòng cần chú ý một số vấn đề sau: Một: Cần tăng cường công tác kiểm tra , rà soát, hệ thống hóa các văn
bản quy pham pháp luật về quốc phòng.
Hệ thống các văn bản về quốc phòng có số lượng rất lớn, nhiều văn bản có tính pháp lý rất cao như: Luật Nnghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam...ngoài ra hệ thống đó còn các văn bản khác, như hệ thống các điều lệnh điều lệ, chế độ quy định do Bộ quốc phòng ban hành; chế độ, quy định, quy tắc, điều lệ do các cơ quan chức năng, đơn vị ban hành theo
thẩm quyền. Đặc biệt, hiện nay, do yêu cầu của công tác quản lý bộ đội bằng pháp luật nên khối lượng các văn bản quản lý của Bô ̣Quốc phòng , các cơ quan chức năng ban hành ngày càng nhiều. Ngoài những văn bản mang tính ổn định lâu dài, có phạm vi điều chỉnh rộng, còn rất nhiều văn bản được ban
hành để phục vụ nhiệm vụ đặc biệt, đột xuất; nhiều văn bản mới thay thế cho văn bản cũ do biến động của tình hình. Do được ban hành từ nhiều chủ thể khác nhau, có nội dung khác nhau, hiệu lực khác nhau, lại chịu sự biến động mạnh mẽ của biến động xã hội, nhiệm vụ quốc phòng, công tác quản lý văn bản cũng chưa được chú ý nên hệ thống văn bản pháp luật về quốc phòng không tránh khỏi những khuyết tật như tản mạn, chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính chặt chẽ. Những điều đó ảnh hưởng lớn đến hoạt động quân sự, trong đó có hoạt động GDPL, làm cho việc vận dụng, áp dụng khó khăn, vì thế, đẩy mạnh công tác hệ thống hóa văn bản pháp luật quốc phòng, về lâu dài là có được một đạo luật về quốc phòng và an ninh, về trước mắt là tập hợp hóa các văn bản pháp luật quốc phòng hiện hành để khắc phục các khuyết tật trên là hết sức cấn thiết, không chỉ bảo đảm cho các hoạt động quốc phòng, quản lý bộ đội bằng pháp luật mà còn trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần tăng cường GDPL, nhất là trong việc điều chỉnh, quy định công tác lãnh đạo, quản lý GDPL trong Quân đội, trong các trường SQQĐ.
Hai: Hoàn thiện các văn bản về chỉ đạo công tác giáo dục và GDPL trong nhà trường quân đội.
Hệ thống các nhà trường quân đội bao gồm nhiều trường, nhiều cấp học với mục tiêu đào tạo khác nhau, nên không thể có một chế độ phù hợp thì không thể điều hành được hoạt động giáo dục, đào tạo. Để hoạt động GDPL của các trường SQQĐ đi vào nền nếp, thống nhất, phải có hệ thống các văn bản có giá trị pháp lý để điều hành công tác giáo dục, huấn luyện nói chung, GDPL nói riêng cho phù hợp với tình hình hiện nay. Về nội dung, việc hoàn
thiện các văn bản chỉ đạo công tác giáo dục và GDPL trong nhà trường quân đội hiện nay cần làm sao để chính thức hóa chương trình giáo dục, từ đó bảo đảm tính ổn định, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, đào tạo đội ngũ giảng dạy và làm công tác GDPL. Một nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện các văn bản về chỉ đạo công tác giáo dục và GDPL trong nhà trường quân đội là phải có văn bản quy định địa vị pháp lý của chủ thể GDPL, trước hết là các văn bản cụ thể hóa của chính phủ, Bộ giáo dục - Đào tạo, sao cho bảo đảm được các quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ này, đồng thời phù hợp với đặc thù quân đội; cũng cần có các quy chế giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo cho phù hợp.
Ba: Hoàn thiện pháp luật quản lý về quốc phòng.
Các văn bản pháp luật quản lý về quốc phòng rất đa dạng, trong đó có văn bản quản lý GDPL. Tình trạng thiếu hoàn thiện của văn bản quản lý là nguyên nhân trực tiếp hạn chế đến chất lượng giáo dục, đến trình độ nhận thức của chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Không ít trường hợp chính sự thiếu hiểu biết này đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ luật. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với cơ quan chức năng là phải quan tâm bổ sung, hoàn thiện văn bản quản lý cần thiết cho trường SQQĐ. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đó cũng cần chú ý tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng để cán bộ, học viên tự nghiên cứu, tìm hiểu dễ dàng. Một yêu cầu nữa trong việc hoàn thiện pháp luật quản lý về quốc phòng là cần cho phép các nhà trường tùy theo chức năng, nhiệm vụ có thể ra các văn bản quy định cụ thể, phù hợp với đơn vị mình nhưng phải đúng thẩm quyền và nội dung văn bản không được trái với văn bản cấp trên. Nội dung cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật quản lý về quốc phòng hiện nay cần tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống, điều lệnh, điều lệ Quân đội. Trong thực tế, do sự phát triển của xã hội, của trang bị kỹ thuật, nghệ thuật quân sự nên điều lệnh, điều lệ Quân đội cũng phải được bổ sung, sửa đổi thì mới phù hợp.
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác giáo dục pháp luật.
Sự lãnh đạo, quản lý công tác GDPL trong các trường SQQĐ hiện nay được thực hiện thông qua các cơ quan, tổ chức sau :
- Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến GDPL - Bộ Quốc Phòng;
- Vụ Pháp chế Bộ Quốc phòng;
- Tổng cục Chính trị, trực tiếp là Phòng giáo dục lý luận, khoa học xã hội và nhân văn thuộc Cục Tuyên huấn;
- Cục Nhà trường/Bô ̣Tổng tham mưu;
- Phòng Quân huấn - Nhà trường trực thuộc các Tổng cục, Binh chủng;
- Các cơ quan Chính tr,ịtổ chứ c Pháp chế taị các Tổng cu,c̣Binh chủng;
- Ban giám hiệu.
- Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong các trường SQQĐ.
Sự lãnh đạo, quản lý của các cơ quan trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, như bảo đảm tính định hướng XHCN trong giáo dục, bảo đảm cơ sở pháp lý, nội dung chương trình, cơ sở vật chất, phương tiện, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ GDPL. Vì thế, vấn đề bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của các cơ quan trên là yếu tố quan trọng của việc đổi mới nâng cao chất lượng GDPL. Thực tế cho thấy sự lãnh đạo, quản lý GDPL của các cấp trong các trường SQQĐ chưa có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, thiếu tính chủ động, triển khai chậm các quyết định lãnh đạo, quản lý…Vì thế để tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác GDPL trong các trường SQQĐ hiện nay điều quan trọng là phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chứ c Đảng,
quản lý, duy tri,
điều hành của đôi
ngũ cán bô ̣chỉ huy, chính ủy, chính trị viên
các cấp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trên.
Thứ nhất: Các cơ quan quản lý phải có quan niệm đúng đắn về GDPL, chú trọng nâng cao nhận thức của cán bộ lãnh đạo, giáo viên, báo cáo viên pháp luật và cán bộ quản lý về vị trí, vai trò của GDPL ,đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, chỉ huy đối với công tác GDPL .
Thứ hai: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cán bộ quản lý về GDPL như sau:
Bộ Quốc phòng - Bộ thực hiện chức năng lãnh đạo quản lý bằng việc nghiên cứu, kịp thời ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý vững chắc cho cho công tác GDPL trong các trường SQQĐ; kịp thời chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác GDPL trong phạm vi nhà trường quân đội; huy động lực lượng đông đảo cán bộ, tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng trong và ngoài Quân đội tham gia hoạt động này.
Hội đồng Phối hơp phổ biêń GDPL Bộ Quốc phòng thực hiện đúng các chức
năng, nhiệm vụ đồng thời chú trọng chỉ đạo công tác GDPL trong các SQQĐ.
Cục Tuyên huấn- Tổng cục Chính trị và Vụ Pháp chế Bộ Quốc phònglãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên các cấp ủy đảng, người chỉ huy các trường SQQĐ trong hoạt động GDPL, tham gia chỉ đạo nội dung chương trình GDPL.
Ban lãnh đạo nhà trường: Hiệu trưởng là người chỉ huy, quản lý các hoạt động của nhà trường, trong đó có nhiệm vụ chỉ huy cán bộ, giáo viên, học viên toàn trường nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật, điều lệnh, điều lệ, các chỉ thị của cấp trên; quản lý, kiện toàn bồi dưỡng trình độ đội ngũ GDPL, cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ ba: Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan lãnh đạo, cán bộ quản lý học viên trong nhà trường:
- Các cấp ủy đảng trong các trường SQQĐ phải nêu cao trách nhiệm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên giảng dạy pháp luật, đội ngũ cán bộ quản lý mẫu mực trong chấp hành kỷ luật, thường xuyên xác định rõ nội dung GDPL, rèn luyện kỷ luật trong các nghị quyết lãnh đạo thường kỳ; ở những thời điểm cần thiết phải có nghị quyết chuyên đề GDPL, rèn luyện kỷ luật. Cần xác định đúng chủ trương, biện pháp lãnh đạo, làm rõ trách nhiệm của từng cấp, từng người trong GDPL, trong rèn luyện kỷ luật. Trong quá
82