Đặc Điểm Giáo Dục Giáo Dục Kĩ Năng Tự Rèn Luyện Thể Lực Học Viên Trường Cao Đẳng

QUY TRÌNH GDTRLTL

Nhu cầu xã

hội

MT

GDKNTRL

PTGDTRLTL

PPGDTRLTL

NDGDTRL

MÔI TRƯỜNG KINH TẾ - XÃ HỘI – VĂN HÓA – KHOA HỌC

Mặt khác, mục tiêu giáo dục kĩ năng tự rèn luyện nói riêng và các yếu tố khác của Quy trình giáo dục nói chung được xuất phát từ nhu cầu của xã hội và chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội - khoa học,... Nói cách khác, các yếu tố xã hội này tạo nên một “trường xã hội”, trong đó diễn ra hoạt động giáo dục kĩ năng tự rèn luyện. Ta có thể mô tả một cách đơn giản mối quan hệ giữa các thành tố cơ bản của Quy trình giáo dục kĩ năng tự rèn luyện như sơ đồ dưới đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.



Giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực cho học viên trường Cao đẳng Nghề số 1 - Bộ Quốc phòng - 5

Kết quả giáo dục

Đánh giá giáo dục


Hình 1. Các thành tố của quy trìnhGDKNTRLTL

1.2.4. Đặc điểm giáo dục giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực học viên trường Cao đẳng

1.2.4.1. Mục tiêu giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực trong nhà trường Cao đẳng

Giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực trong nhà trường Cao đẳng nhằm mục tiêu:

Thể hiện khả năng thực hiện nâng cao đối với các kỹ năng thể chất đa dạng, thông qua việc phát triển các kỹ năng vận động cơ bản, sáng tạo nên các nhóm kỹ năng kết hợp cơ bản và áp dụng các kỹ năng.

Học viên có thể áp dụng các nguyên tắc cơ chế sinh học để tạo nên và kiểm soát lực nhằm nâng cao tính hiệu quả và an toàn khi vận động. Học viên có thể áp dụng các nguyên tắc vận động để học và tập luyện đạt mức thành thạo

thông qua việc thực hành thường xuyên. Các kỹ năng này được lặp đi lặp lại một cách chính xác trong các tình huống khác nhau.

Học viên có thể áp dụng các nguyên tắc khoa học để thiết kế và thực hiện đều đặn các hoạt động thể chất, với các chương trình từ mức độ trung bình đến nâng cao. Những bài học này không chỉ giúp học viên tăng cường sức khỏe mà nâng cao nhận thức trong các công việc hàng ngày liên quan đến giáo dục, giải trí và sinh hoạt.

Học viên áp dụng các nguyên tắc của thể lực học thực hành, tâm lý học xã hội và cơ chế sinh học để thiết kế và tuân thủ một chương trình hoạt động thể chất đều đặn, có mục đích rõ ràng định hướng cho từng cá nhân. Chương trình này thỏa mãn yêu cầu về sự phù hợp, phương thức thực hiện và thể trạng của từng em nhằm đem lại những lợi ích về sức khỏe, học tập và giải trí.

Học viên áp dụng các kỹ năng cần thiết nhằm phát triển bản thân một cách toàn diện, nâng cao nhận thức của cộng đồng và khả năng làm việc hiệu quả với những người khác thông qua các hoạt động thể lực.

Như vậy, giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực trong nhà trường Cao đẳng là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho học viên các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.

Hoạt động rèn luyện thể lực trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của học viên, được tổ chức theo phương thức ngoại khóa, câu lạc bộ thể dục, thể thao, nhóm, cá nhân phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe, nhằm hoàn thiện các kỹ năng vận động, hỗ trợ thực hiện mục tiêu giáo dục thể chất thông qua các hình thức luyện tập, thi đấu thể thao, tạo điều kiện học viên thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, tài năng thể thao.

1.2.4.2. Cấu trúc chương trình của giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực trong nhà trường Cao đẳng

Cấu trúc chương trình của giáo dục thể lực trong nhà trường Cao đẳng được thiết kế theo cấu trúc vừa đồng tâm vừa tuyến tính phù hợp với tâm - sinh lý lứa tuổi và quy luật phát triển thể lực của HV; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi HV; vận dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với đặc điểm của môn học và hỗ trợ việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực vận động ở học sinh.

Chương trình mang tính mở, tạo điều kiện để HV được lựa chọn các hoạt động phù hợp với thể lực, nguyện vọng của bản thân và điều kiện của nhà trường; đồng thời tạo điều kiện để các trường xây dựng kế hoạch giáo dục thể chất phù hợp với yêu cầu giáo dục thể lực, điều kiện thực tế và đặc điểm cụ thể của HS địa phương.

Trong cấu trúc chương trình của trong nhà trường Cao đẳng. Yêu cầu cơ bản của phương pháp giáo dục mới là phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn luyện năng lực tự học, tự rèn luyện cho học viên, giúp các học viên có cơ hội phát triển năng lực thể chất.

Để thực hiện được yêu cầu này, giáo viên đóng vai trò thiết kế, tổ chức, cố vấn, trọng tài, hướng dẫn hoạt động tự rèn luyện cho học viên, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học viên tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự mình trải nghiệm, tự phát hiện bản thân và phát triển.

Giáo viên sử dụng đa dạng các phương pháp nhằm tích cực hoá các hoạt động của học viên một cách hợp lý, kết hợp các loại dụng cụ, trang thiết bị rèn luyện thể lực phù hợp với điều kiện thực tế, chú trọng sử dụng hiệu quả các thành tựu của công nghệ thông tin, phương tiện nghe nhìn thông qua các tranh ảnh kỹ thuật, video clip... để tạo nên giờ động, hấp dẫn và hiệu quả.

Trong hoạt động tự rèn luyện giáo dục thể lực, giáo viên cần tích hợp, sử dụng kiến thức một số môn học khác để nội dung luyện tập không bị đơn điệu.

Ví dụ, trong quá trình tổ chức luyện tập, giáo viên nên sử dụng một số bài hát (đồng dao) khi tổ chức trò chơi, hoặc kết hợp với âm nhạc phù hợp làm “nền” cho những thời gian luyện tập nhất định trong giờ học, tạo không khí vui tươi, hưng phấn khi tập luyện, làm cho học viên ưa thích và đam mê luyện tập thể lực.

Giáo viên cần sáng tạo và linh hoạt khi xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực để đảm bảo tính thực tiễn, phù hợp với thể lực của các nhóm học viên, cơ sở vật chất của từng địa phương cũng như thời tiết của mỗi vùng miền, đặc biệt là các nội dung thực hành ở những trường không có nhà thể chất.

Đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực phải căn cứ vào mục tiêu và các yêu cầu cần đạt trong chương trình giáo dục thể lực, bảo đảm toàn diện, khách quan, có phân hoá; phải kết hợp giữa đánh giá thường xuyên và định kỳ, kết hợp giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học viên để điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy - học.

Việc đánh giá kết quả Giáo dục thể lực cần thúc đẩy và hỗ trợ học viên phát triển các phẩm chất và năng lực chung, năng lực chuyên môn, chú trọng khả năng vận dụng kiến thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ hoạt động vận động của học viên tạo được hứng thú và khích lệ tinh thần tự rèn luyện thể lực của học viên, qua đó khuyến khích các em tham gia các hoạt động rèn luyện thể lực ở trong và ngoài nhà trường.

1.2.4.3. Nội dung của giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực học viên trường Cao đẳng

Nội dung chủ yếu giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực học viên trường Cao đẳng bao gồm:

- Các kỹ năng vận động và phát triển tố chất thể lực

- Những bài tập đa dạng như rèn kỹ năng vận động cơ bản, đội hình đội ngũ, các bài tập thể dục, các trò chơi vận động, các môn thể thao và phương pháp phòng tránh chấn thương trong hoạt động…

Trong chương trình giáo dục đại học, cao đẳng, nội dung giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực học viên trường Cao đẳng được phân chia theo hai giai đoạn:

- Trong giai đoạn giáo dục cơ bản, giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực là môn học bắt buộc nằm trong chương trình môn GDTC, giúp HV biết cách chăm sóc sức khoẻ và vệ sinh thân thể; hình thành thói quen rèn luyện nâng cao sức khoẻ; thông qua các trò chơi vận động và rèn luyện thể dục, thể thao hình thành các kỹ năng vận động cơ bản, phát triển các tố chất thể lực, làm cơ sở để phát triển toàn diện.

- Trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, giáo dục kĩ năng tự rèn luyện thể lực được thực hiện thông qua hình thức câu lạc bộ thể thao, HV được chọn nội dung hoạt động thể thao phù hợp với nguyện vọng của mình và khả năng đáp ứng của nhà trường. HV được tiếp tục phát triển kỹ năng chăm sóc sức khoẻ và vệ sinh thân thể, phát triển về nhận thức và năng khiếu thể thao, giúp những học sinh có năng khiếu thể thao định hướng nghề nghiệp phù hợp.

1.2.4.4. Phương pháp giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực

Để giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực cho HV, GV cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp đặc trưng trong giáo dục kỹ năng tự rèn luyện thể lực như:

- Phương pháp tự học tập: Phương pháp tự học của học viên có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi nào học viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các hoạt động tìm tòi, khám phá tự giác, đứng trước mọi hiện tượng của thế giới khách quan là khi đó họ đang tiến hành tự học.

Tự là một trong những hình thức tổ chức dạy học cơ bản có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và có khi do tập thể sinh viên tiến hành ngoài giờ học chính

khoá hoặc do bản thân sinh viên độc lập tiến hành ngay trong giờ chính khoá như: Đọc sách ghi chép theo cách riêng, làm bài tập, tham gia các hoạt động thực tế…

Như vậy cốt lõi của phương pháp tự học tập và khi xem xét đến mối quan hệ giữa dạy và học thì dạy chỉ là ngoại lực, còn tự học là nhân tố quyết định đến bản thân người học - nội lực. Nhưng quá trình dạy cũng có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học. Do vậy, trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lý bằng hành động của mình, tự phát triển bên trong. Thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học.Người thầy giỏi là người dạy cho trò biết tự học. Người trò giỏi là người biết tự học sáng tạo suốt đời.

Hình thức của phương pháp tự học tập bao gồm

+ Tự học trên lớp: Nghe giảng; Ghi chép; Làm bài tập

+ Tự học ngoài lớp: Đọc sách và tài liệu tham khảo; Làm đề cương cho thảo luận nhóm, thảo luận lớp; Thực hiện các bài tập thực hành bộ môn; Làm đề cương ôn tập; Hoàn thành tiểu luận, luận văn tốt nghiệp.

- Phương pháp làm việc theo nhóm: Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học: phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm là một phương pháp sư phạm mà theo đó, lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm được phân công giải quyết một công việc cụ thể hướng tới một nội dung công việc chung lớn hơn; kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận chung trước khi giáo viên đi đến kết luận cuối cùng.

Làm việc theo nhóm là một cách học cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giảng viên dẫn dắt trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và phân công công việc trong nhóm nhỏ.

Phương pháp này thích hợp cho việc trao đổi trong nhóm, đưa ra những cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo; kích thích sự hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham gia vào việc giải quyết một vấn đề.

Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau được rất ít thì trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng đòi hỏi tăng cường tư duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm.

Trong khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, giảng viên đóng vai trò là người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy công việc của giảng viên trong làm việc theo nhóm không bao giờ là thừa, trái lại đó là một sự cần thiết để giúp cho các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm ra những giải pháp, câu trả lời cho vấn đề được đưa ra.

- Phương pháp làm mẫu: Bằng cách làm mẫu trực tiếp, giáo viên cung cấp cho học viên ví dụ rõ ràng về một kỹ năng hoặc một thủ thuật nào đó. Giáo viên đưa ra một cấu trúc mẫu để hướng dẫn học sinh bằng cách: Mô tả kỹ năng hoặc thủ thuật đó; Mô tả rõ ràng các đặc điểm của thủ thuật đó, hoặc các bước thực hiện kỹ năng; Chia kỹ năng thành từng phần dễ tiếp thu; Mô tả/làm mẫu sử dụng nhiều thủ thuật khác nhau; Cuốn hút học viên vào việc học tập bằng cách thể hiện lòng nhiệt tình, giữ nhịp độ vừa phải, đặt các câu hỏi có chất lượng, và kiểm tra sự tiếp thu của học sinh Giáo viên cần phải mô tả rõ khái niệm, sau đó làm mẫu kết quả cần đạt, vừa nói to lên những suy nghĩ của mình vừa sử dụng các kỹ thuật giảng dạy qua hình ảnh, âm thanh, tiếp xúc, và/hoặc vận động. Giáo viên có thể đưa ra ví dụ để giúp học sinh thấy rõ các mục tiêu và thường xuyên ngừng lại để học viên đóng góp ý kiến hoặc nêu câu hỏi.

Phương pháp làm mẫu giúp cho việc tương tác giữa giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao hơn.

- Phương pháp trò chơi: Ý nghĩa của trò chơi như một hiện tượng xã hội đa diện đã vượt ra ngoài phạm vi giáo dục thể lực và giáo dục nói chung.

Song một trong những chức năng chủ yếu nhất của trò chơi là chức năng giáo dục. Từ xa xưa, trò chơi đã là một trong những phương tiện và phương pháp cơ bản của giáo dục theo nghĩa rông của từ đó.

Phương pháp trò chơi không nhất thiết phải gắn với một trò chơi cụ thể nào đó như bóng đá, bóng chuyền hoặc các trò chơi vận động đơn giản. Về nguyên tắc,phương pháp trò chơi có thể được sử dụng trong bất kỳ bài tập thể lực nào. Tất nhiên chúng phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm của phương pháp trò chơi.

Đặc điểm của phương pháp trò chơi là: Tổ chức theo chủ đề, hoạt động của những người chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề giả định hoặc có tính chất hình ảnh. Phương pháp này phong phú về phương thức đạt mục đích: Hầu như bao giờ cũng có nhiều cách để chiến thắng được luật chơi cho phép. Đay cũng là một hoạt động độc lập sáng tạo, có yêu cầu cao về sự nhanh trí khéo léo của người chơi. tạo nên sự đua tranh căng thẳng giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm người và tạo nên cảm xúc mạnh mẽ

- Phương pháp thi đấu: Đặc điểm cơ bản của phương pháp thi đấu là so sánh sức lực trong điều kiện đua tranh thứ bậc, vị trí để đạt thành tích cao nhất.

Tạo nên cảm xúc và những biến đổi sinh lý đặc biệt làm tăng thêm tác dụng của bài tập.

Phương pháp thi đấu được sử dụng để giải quyết nhiều nhiệm vụ khác nhau như: phát triển tố chất thể lực, củng cố hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo vận động và năng lực thể hiện chúng trong những điều kiện phức tạp.

Phương pháp thi đấu đòi hỏi phát huy tính tập thể, tính kỷ luật và sự nỗ lực ý chí cao. Chuẩn hoá đối tượng thi, quy tắc thi và phương thức đánh giá thành tích.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/10/2023