Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an - 2



Nhận thức rõ tầm quan trọng của tự học, trong những năm qua nhà trường luôn quan tâm đến quản lý hoạt động tự học của học sinh. Tuy nhiên, chất lượng tự học của học sinh còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và của ngành. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng cử tuyển đầu vào thấp, học sinh chưa có kỹ năng và phương pháp học tập khoa học, hợp lý. Trong khi đó, việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn chậm, chủ yếu vẫn là truyền thụ kiến thức trong chương trình, chưa tập trung nhiều đến đổi mới phương pháp dạy học. Công tác quản lý hoạt động tự học chủ yếu vẫn là quản lý hành chính, chưa thực sự có hình thức tổ chức và biện pháp quản lý phù hợp.

Từ những tồn tại trên, việc tìm ra các biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng tự học của học sinh nhà trường là nhiệm vụ hết sức cấp thiết đối với trường Văn hoá I trong giai đoạn hiện nay. Do đó chúng tôi chọn đề tài: "Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an”.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tự học, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

4. Giả thuyết khoa học

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Chất lượng và hiệu quả quá trình dạy học của trường Văn hoá I - Bộ Công an phụ thuộc vào năng lực tự học của học sinh. Nếu đề xuất được hệ thống các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh phù hợp với điều kiện hiện có của nhà trường thì sẽ góp phần hình thành năng lực tự học của học sinh nói riêng, chất lượng và hiệu quả quá trình dạy học nói chung.


Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an - 2

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của tự học và quản lý hoạt động tự học của học sinh THPT.

5.2. Khảo sát thực trạng hoạt động tự học, các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

6. Phạm vi nghiên cứu

Do khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình quản lý hoạt động tự học của trường Văn hoá I - Bộ Công an với tư cách là một trường làm nhiệm vụ đào tạo văn hoá THPT trong lực lượng CAND. Từ đó đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Văn hoá I - Bộ Công an.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các tài liệu và các văn bản.

- Phương pháp nghiên cứu lịch sử vấn đề, phát hiện và khai thác những khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập đến, làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp quan sát, điều tra bằng ankét về thực trạng hoạt động tự học và quá trình quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia góp ý về cách xử lý kết quả điều tra, các biện pháp quản lý.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong quản lý hoạt động tự học.

7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả điều tra.


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH

1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Trong lịch sử phát triển của giáo dục, tự học là vấn đề luôn được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận cũng như thực tiễn. Song ở mỗi giai đoạn lịch sử, vấn đề tự học được đề cập đến ở những góc độ khác nhau.

Thời cổ đại, Khổng Tử (551 - 479 TCN), Nhà giáo dục kiệt xuất của Trung Hoa luôn quan tâm và coi trọng mặt tích cực suy nghĩ của người học. Khi nói về cách học, ông cho rằng cách học đúng là: “học và suy nghĩ phải phù hợp với nhau và coi trọng cả hai”.

Thời cận đại, nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J. A. Komenxky (1592 - 1670) đã khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng”. Năm 1657, ông đã hoàn thành tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” trong đó nêu rõ: “Việc học hành, muốn trau dồi kiến thức vững chắc không thể làm một lần mà phải ôn đi ôn lại, có bài tập thường xuyên phù hợp với trình độ”. [8, tr.40]

Trong giai đoạn hiện đại, các nhà giáo dục học đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và đã khẳng định vai trò to lớn của tự học. Trong tác phẩm “Tự học như thế nào” của N. A. Rubakin (1862 - 1946) do Nguyễn Đình Khôi dịch, đã tập trung trình bày nhiều vấn đề về các phương pháp tự học, các phương pháp sử dụng sách.

Ở Việt Nam, hoạt động tự học chỉ thực sự được chú ý và quan tâm dưới nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một tấm gương sáng về tinh thần tự học. Tư tưởng của Người về giáo dục đã được vận dụng, quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II - BCH TW Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Đổi mới phương pháp dạy học… nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”. [12]

Từ quan điểm chỉ đạo trên, để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tự học đã hoàn thành như: “Quá trình dạy



- Tự học” do Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên và các tác giả, “Phát triển tính tích cực, tính tự lực của học sinh trong quá trình dạy học” của tác giả Nguyễn Ngọc Bảo, “Tổ chức dạy học cho học sinh dân tộc miền núi” của tác giả Phạm Hồng Quang .v.v.

Thời gian qua, dưới sự hướng dẫn của các thầy, cô giảng viên các trường đại học sư phạm, trường cán bộ quản lý giáo dục nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề tự học đã hoàn thành như: "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của sinh viên Học viện Quân Y" của tác giả Quản Thành Minh,“Một số biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh THPT nội trú Đồ Sơn” của tác giả Trịnh Khắc Hậu .v.v

Như vậy, vấn đề tự học của học sinh, sinh viên đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động tự học, biện pháp sư phạm của người thầy nhằm hướng dẫn cho người học phương pháp tự học, hình thành ở người học kỹ năng tự học. Đồng thời cũng đề ra một số biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động tự học của học sinh, sinh viên.

Tuy nhiên, về phương diện quản lý hoạt động tự học của học sinh, sinh viên trong lực lượng Công an thì hiện nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Do đó đề tài tập trung nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận của hoạt động tự học, thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động tự học, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an.

1.2. Những vấn đề lý luận về tự học

1.2.1. Khái niệm tự học

Có rất nhiều công trình nghiên cứu về tự học, các tác giả đưa ra những khái niệm khác nhau về tự học:

"Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể". [35]

"Tự học là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng đắn vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ xã hội". [17, tr.1]



Những quan điểm trên về tự học tuy khác nhau, nhưng đều chung bản chất đó là sự tự giác và kiên trì cao; sự tích cực, độc lập và sáng tạo của người học trong học tập. Do đó, có thể khái quát chung: Tự học là hoạt động độc lập, chủ yếu mang tính cá nhân của người học trong quá trình nhận thức, học tập để cải biến nhân cách, nó vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của quá trình đào tạo.

Hoạt động tự học được coi là hoạt động có tổ chức của người học, diễn ra dưới các dạng khác nhau:

- Tự học diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của người dạy và những phương tiện kỹ thuật trên lớp, trong đó người học phát huy hết những năng lực, phẩm chất như nghe giảng, ghi chép bài, phân tích, khái quát hoá .v.v. để tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người dạy định hướng cho.

Ở dạng tự học này giáo viên đóng vai trò chủ đạo, do đó thông qua việc thiết kế bài giảng, giáo viên phải tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.

- Tự học diễn ra dưới sự điều khiển gián tiếp của người dạy, lúc này người học phải tự sắp xếp thời gian, điều kiện cơ sở vật chất để tự học, tự củng cố, tự đào sâu những tri thức hoặc tự hình thành những kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu của nội dung đã được hướng dẫn.

Đây là dạng tự học diễn ra ngoài giờ lên lớp dưới sự quản lý của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Các lực lượng trong nhà trường chủ yếu đóng vai trò gián tiếp thông qua yêu cầu các nội dung tự học, còn lực lượng trực tiếp quản lý hình thức tự học này chính là xã hội và gia đình học sinh.

Đối với môi trường phổ thông dân tộc nội trú và trường có tính chất đặc thù như trường Văn hoá I thì các lực lượng giáo dục trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý hoạt động tự học của học sinh ngoài giờ lên lớp. Bởi các em được học tập trong môi trường tập trung dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các lực lượng giáo dục trong nhà trường.



- Tự học độc lập nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết riêng, mở rộng tri thức ở bên ngoài. Đây là dạng tự học ở mức độ cao nhất, đòi hỏi tính tự giác cao của người học nên biện pháp quản lý tốt nhất là quản lý nhiệm vụ học tập hay sản phẩm người học hoàn thành.

Như vậy, phạm vi của tự học là rất rộng, đề tài không nghiên cứu các biện pháp quản lý dạng hoạt động tự học độc lập của học sinh mà chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trong và ngoài thời gian lên lớp, dưới sự tổ chức của nhà trường thông qua sự điều khiển trực tiếp hay gián tiếp của giáo viên.

1.2.2. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh dân tộc thiểu số

Qua nghiên cứu tài liệu của tác giả Phạm Hồng Quang và một số tác giả khác, chúng tôi rút ra một số đặc điểm tâm lý và hoạt động tự học của học sinh dân tộc nội trú như sau:

* Đặc điểm tâm lý trong học tập

Đặc điểm về nhận thức

Nhìn chung, các nét tâm lý như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ, tính kiên trì .v.v. của học sinh chưa được chuẩn bị chu đáo. Quá trình chuyển hoá nhiệm vụ, yêu cầu học tập cũng như cơ chế hình thành ở bản thân học sinh diễn ra chậm. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhận thức cảm tính của học sinh phát triển khá tốt: cảm giác, tri giác của các em có những nét độc đáo, tuy còn thiếu tính hoàn thiện, cảm tính, mơ hồ, không thấy được bản chất của sự vật hiện tượng. Quá trình tri giác thường gắn với hành động trực tiếp, đối tượng tri giác chủ yếu là sự vật gần gũi.

Khả năng tư duy kinh nghiệm của học sinh đạt mức cao so với trình độ chung của lứa tuổi, song khả năng tư duy lý luận còn thấp so với yêu cầu; trình độ các thao tác tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát nhiều khi thiếu toàn diện, hệ thống. Tri thức, thói quen được hình thành bằng con đường kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành các thao tác trí tuệ của các em. Tuy nhiên, trong thao tác tư duy thì khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát ở các em còn phát triển chậm, khả năng tư duy nói chung và khả năng tiến hành các thao tác trí óc nói riêng hình thành khó khăn.



Quá trình tư duy đối với các khái niệm khoa học và khái niệm thông thường thì sự hiểu biết thuộc tính bản chất khái niệm và sự vận dụng các khái niệm đó vào thực tế chỉ đạt mức gần trung bình. Các em hay lầm lẫn giữa thuộc tính bản chất với thuộc tính không bản chất của khái niệm.

Những đặc điểm quá trình nhận thức của học sinh chi phối mạnh mẽ các thuộc tính tâm lý khác như: khả năng ghi nhớ có chủ định chậm được hình thành, khả năng tự điều chỉnh ghi nhớ có ý thức của học sinh còn yếu. Đặc biệt, về mặt ngôn ngữ các em còn gặp khó khăn vì trước khi đi học các em thường dùng tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức ở trường lại diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Như vậy, ở góc độ nhất định, sự giao thoa ngôn ngữ gây khó khăn trong hoạt động nhận thức khi mà công cụ tư duy bị hạn chế. Trong học tập các em không biết lật đi lật lại vấn đề, phát hiện thắc mắc, suy nghĩ sâu sắc về vấn đề học tập. Đa số học sinh chỉ cố gắng ghi nhớ toàn bộ lời giảng của giáo viên rồi lặp lại y nguyên, ngại đào sâu suy nghĩ, tìm dấu hiệu bản chất của nội dung vấn đề (học vẹt). Trong lối sống, các em không thích gò bó, thường có những thói quen chưa tốt như phong cách chậm chạp, thiếu ngăn nắp, ảnh hưởng đến công tác đào tạo khi các em học tập tại trường.

Đặc điểm nhu cầu

Đối với học sinh dân tộc thiểu số, đi học là sự thay đổi căn bản, ở môi trường này tâm lý các em có sự chuyển biến, ý thức mình là học sinh, là cán bộ tương lai của địa phương, đất nước. Đặc biệt, học sinh trường Văn hoá I khi được cử tuyển vào trường các em đã thuộc biên chế của lực lượng Công an, bản thân các em xác định học tập để phục vụ lâu dài trong lực lượng Công an. Vì vậy, duy trì được nhu cầu thích học, khẳng định vị trí mới cho học sinh trong môi trường nội quy kỷ luật của ngành là một trong những nhu cầu thiết yếu để giáo dục học sinh, đặc biệt là về ý thức tập thể và kỷ luật học tập. Vấn đề là tổ chức học tập làm sao cho hiệu quả, phù hợp với đặc điểm nhận thức, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển nhu cầu cho học sinh cần gắn liền với cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức học tập thích hợp, để nâng cao kết quả học tập.



Đặc điểm giao tiếp

Học sinh dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng mạnh của giao tiếp cộng đồng. Trong quá trình học tập tại trường, không gian nội trú là môi trường giao tiếp sư phạm mới, có ý nghĩa lớn đối với các em. Khi được giao tiếp trong môi trường mới đa dạng, phong phú về các hình thức tổ chức học tập, thời gian tiếp xúc của học sinh với các lực lượng giáo dục trong nhà trường nhiều hơn so với các môi trường khác. Tuy nhiên, tính tích cực trong giao tiếp của học sinh chưa cao, khả năng giao tiếp, nhận thức và nhu cầu còn có mâu thuẫn.

Từ những đặc điểm trên, đòi hỏi hình thức tổ chức tự học cũng như quản lý hoạt động tự học của học sinh phải đổi mới cho phù hợp với nhu cầu đúng đắn của học sinh.

* Đặc điểm hoạt động tự học của học sinh dân tộc nội trú

Trong môi trường nội trú, thời gian dành cho học tập và sinh hoạt ngoài giờ chính khoá chiếm phần lớn thời gian đào tạo. Trong các dạng hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khoá như vui chơi, văn hoá văn nghệ, thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ, tham quan, học tập ngoại khoá thì hoạt động tự học nhằm củng cố, bổ sung, nâng cao, mở rộng kiến thức đã học, phát triển hứng thú học tập, rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh. Như vậy, môi trường tự học hoàn toàn thuận lợi dưới sự quản lý, tổ chức điều khiển thống nhất ở các địa điểm nhất định.

Hình thức tự học trong môi trường nội trú đa dạng, phong phú, học sinh có thể tự học một mình, học trao đổi nhóm với bạn hay với giáo viên, học có giáo viên hướng dẫn chung và riêng; thời gian dành cho tự học trong ngày nhiều, được phân chia theo thời gian cụ thể. Đối với học sinh trường Văn hoá I, thời gian học tập trong ngày được thực hiện theo quy định của lực lượng Công an. Theo đó thời gian dành cho hoạt động học tập hàng ngày của học sinh được quy định: buổi sáng từ 7 giờ đến 11 giờ, buổi chiều từ 13 giờ đến 16 giờ, buổi tối từ 19 giờ đến 21 giờ. Như vậy, ngoài thời gian nghỉ, thời gian dành cho sinh hoạt cá nhân và các hoạt động tập thể thì thời gian trong ngày dành cho nhiệm vụ học tập là 9 giờ. Trong đó từ 4 đến 5 giờ dành cho học tập chính khoá trên lớp theo chương trình, còn 4 đến 5 giờ dành cho tự học ngoài giờ lên lớp vào buổi chiều và buổi tối.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/10/2022