78
Chương 3
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN KHU VỰC TÂY NGUYÊN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY :
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Tây Nguyên nằm ở phía tây của Nam Trung Bộ Việt Nam, là địa bàn chiến lược nhiều mặt của cả nước, nơi cư trú của nhiều dân tộc và nhóm dân tộc khác nhau. Nơi đây “hội tụ” những yếu tố nhạy cảm về địa chính trị, địa văn hoá …Bức tranh văn hoá Tây Nguyên vốn phong phú, đa dạng đang thay đổi từng ngày do tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và sự hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu vực và quốc tế.
3.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG NHẰM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN Ở KHU VỰC TÂY NGUYÊN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY
Ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên
Điều kiện địa lý, tự nhiên được hiểu là toàn bộ môi trường sống của con người, ảnh hưởng tới nhận thức và hành động của con người. Chính điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới ý thức xã hội như: tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống.
Tây Nguyên là một trong 8 vùng kinh tế của Việt Nam, diện tích tự nhiên trên 5,5 triệu ha, bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng với 60 đơn vị hành chính cấp thành phố, huyện (4 thành phố, 6 thị xã và 50 huyện), 712 đơn vị cấp xã, phường, thị trấn (590 xã, 75 phường và 47 thị trấn) và 7.337 thôn, buôn. Trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có tới 4 tỉnh có đường biên giới giáp với hai nước Lào và Cămpuchia dài 590 km, là các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk và ĐăK Nông, với 4 cửa khẩu quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Và Một Số Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Dân Tộc Cần Phải Giáo Dục Cho Sinh Viên Việt Nam Hiện Nay
- Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay - 9
- Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay - 10
- Thực Trạng Giáo Dục Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Nhằm Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách Sinh Viên Ở Khu Vực Tây Nguyên Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hoá
- Những Kết Quả Đạt Được Từ Phía Sinh Viên Khu Vực Tây Nguyên Đối Với Việc Học Tập, Giữ Gìn Và Phát Huy Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Dân Tộc
- Những Hạn Chế Đối Với Việc Giáo Dục Giá Trị Đạo Đức Truyền Thống Nhằm Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách Sinh Viên Khu Vực Tây Nguyên Trong Bối
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
79
Sống trên cao nguyên rộng lớn, với nền kinh tế nương rẫy chịu những quy định khách quan của hoàn cảnh lịch sử. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên lưu giữ nhiều tàn dư xã hội tiền giai cấp. Hình thái tổ chức xã hội là buôn, làng, Plây, đây là tổ chức xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cư dân các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Do hình thái cư trú cùng với địa hình phức tạp có rừng, cao nguyên, trung du với trình độ phát triển kinh tế thấp, nên tư duy con người nơi đây ít nhiều mang tính thần bí, trong cuộc sống hàng ngày luôn có yếu tố thần linh chi phối. Trong điều kiện đó, để tồn tại và phát triển, người dân Tây Nguyên phải cần cù trong lao động, sống vị tha, tiết kiệm và nêu cao tính cộng đồng.
Trải qua quá trình biến động và xáo trộn dân cư trong lịch sử, nhất là quá trình tăng dân số tự nhiên và cơ học từ sau năm 1975, năm 2009 dân số toàn vùng Tây Nguyên là 5.021.376 người, thuộc 47 dân tộc. Các dân tộc thiểu số tại chỗ gồm 12 dân tộc, với 1.280.201 người, chiếm 25% dân số Tây Nguyên. Người kinh di cư từ đồng bằng lên, với dân số 3.362.479 người chiếm gần 70% dân số Tây Nguyên hiện nay. Các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc di cư tự do vào, với số lượng gần 400.000 người, chiếm trên 6% dân số, chủ yếu là 5 dân tộc lớn: Tày, Nùng, Thái, Hmông, Dao. Vùng đất Tây Nguyên kết cấu dân cư đa dạng và phức tạp đã tạo cho nơi đây bức tranh nhiều màu sắc về văn hoá, tín ngưỡng. Bên cạnh những thuận lợi nhất định thì đây cũng là những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như việc xây dựng nhân cách cho thế hệ trẻ ở Tây Nguyên hiện nay, nhất là những kỹ năng giao tiếp, khả năng hòa nhập, phát triển năng lực ở lứa tuổi này.
Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên
Trong những năm đổi mới, kinh tế ở Tây Nguyên đã có những bước phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức tương đối cao. Báo cáo tổng kết năm 2012 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên nhận định: Năm 2012, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng tình hình phát triển
80
kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng ở Tây Nguyên đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ, tăng trưởng GDP đạt 11,8%, huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 11%, thu ngân sách tăng 9,26% so với năm 2011 [141].
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế ở Tây Nguyên vẫn chủ yếu theo chiều ngang hay chiều rộng chứ chưa theo chiều dọc hay chiều sâu, nghĩa là tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào khai thác tài nguyên có sẵn như rừng, đất đai, lao động thủ công giá trị thấp. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, cùng với cách tổ chức buôn làng đã tạo ra những nét tính cách đặc thù của người dân Tây Nguyên: tính tình thẳng thắn, sống có nghĩa tình, đoàn kết gắn bó chặt chẽ với nhau. Mặt khác, nền kinh tế ảnh hưởng đến nhận thức của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên sống dựa vào điều kiện tự nhiên, sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Cuộc sống gắn chặt với các sản phẩm từ rừng, chưa tạo ra được tư duy sáng tạo đổi mới để thoát khỏi hoàn cảnh. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nhận thức rất đơn giản về cuộc sống, họ chưa hiểu biết nhiều về tính chất phức tạp của toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường. Điều đó, đang ảnh hưởng tới việc xây dựng con người mới trên mảnh đất Tây Nguyên nói chung, cho thế hệ trẻ nói riêng, trong đó có sinh viên - đặc biệt là tác phong lao động công nghiệp, tư duy hội nhập để phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi chủ thể giáo dục phải hạn chế ảnh hưởng tiêu cực từ tâm lý sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, đồng thời phát huy những giá trị truyền thống tích cực như: tính thẳng thắn, đoàn kết, thương yêu, trọng nghĩa tình, để khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở sinh viên, hướng tới mẫu hình nhân cách phát triển toàn diện.
Ảnh hưởng của văn hoá, khoa học, giáo dục và công nghệ đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng nhân cách sinh viên khu vực Tây Nguyên
Bên cạnh điều kiện địa lý, tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội thì văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ cũng ảnh hưởng đến việc giáo
81
dục đạo đức truyền thống nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho sinh
viên khu vực Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài một số nét tương đồng cùng văn hóa dân tộc Việt Nam, văn hoá các tộc thiểu số ở Tây Nguyên cũng có những bản sắc riêng biệt. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của văn hoá các dân tộc thiểu số ở đây gắn liền với “rừng”, với buôn, làng, nương rẫy. Người Tây Nguyên tin rằng: vạn vật hữu linh, mọi vật chung quanh con người đều có hồn, có thần linh (Yang) che chở, phù hộ.
Nói đến văn hoá Tây Nguyên, trước hết phải nói đến văn hoá cồng, chiêng (cồng là loại có núm, chiêng là loại không núm) - cái tạo nên bản sắc Tây Nguyên. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên: Cồng, chiêng được xem là thứ ngôn ngữ hàng đầu để con người tiếp xúc với thần linh. Chính vì vậy, cồng chiêng được sử dụng trong các nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Giá trị văn hoá của cồng chiêng ở Tây Nguyên có vị thế đặc biệt nổi bật trong nhạc khí cổ truyền các dân tộc thiểu số, tạo nên một bản sắc văn hoá riêng cho cộng đồng các dân tộc thiểu số nơi đây. Với giá trị và ý nghĩa nhiều mặt - nhất là về văn hoá - mà không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Bên cạnh Cồng chiêng, cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên còn sáng tạo ra các loại nhạc cụ như: đàn kôh, klong put, đàn t’rưng, t’rưng nước, t’rưng gió, chinh krên (chiêng gió)... được làm từ các vật liệu sẵn có trong tự nhiên. Chính những nhạc cụ này đã làm nên một Tây Nguyên đầy bản sắc, có thể nói không đâu có được.
Điểm nổi bật trong không gian văn hoá Tây Nguyên là kiến trúc nhà ở (nhà Rông, nhà Guơl, nhà Dài) đây là một thành tố quan trọng không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt cộng đồng dân tộc Tây Nguyên. Nhà Rông ở Tây Nguyên không chỉ là nơi để thực thi các luật tục, nơi tiếp khách, nơi diễn ra
82
các sự kiện trọng đại, nơi các già làng dùng để tập hợp người dân bàn luận những vấn đề quan trọng của làng, của đất nước, mà còn là nơi thể hiện mỹ thuật trang trí độc đáo, thể hiện khát vọng của nhân dân muốn vươn lên trời xanh, mong muốn hoà nhập vào vũ trụ.
Một nét đặc sắc trong văn hoá dân tộc Tây Nguyên góp phần làm nên bản sắc của văn hoá vùng này, đó là những bộ luật tục truyền miệng, nơi chứa đựng những tri thức phong phú về quản lý cộng đồng, về bản sắc văn hoá của từng tộc người. Hiện nay, ở khu vực Tây Nguyên vẫn còn lưu giữ “200 tục lệ của người Êđê, 100 tục lệ của người Mnông và hàng ngàn tục lệ của người Giarai, Bana, Gié-triêng, Xơđăng” [84, tr.254]. Những tục lệ này phản ánh đời sống phong phú và đa dạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, từ việc ứng xử trong cộng đồng, việc ăn, ở, mặc, giải trí, việc cưới, tang, lễ nghi, tín ngưỡng.
Bên cạnh những đặc điểm văn hoá nổi bật, văn hoá Tây Nguyên trong cội nguồn của nó luôn thể hiện các giá trị: yêu nước, thương yêu con người, cần cù tiết kiệm, đoàn kết, hiếu học. Đây chính là những giá trị văn hoá, đạo đức thể hiện sự giao thoa, gặp gỡ của nền văn hoá Việt Nam “là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
Lòng yêu nước được biểu hiện ở văn hoá, con người đồng bào các dân tộc Tây Nguyên: thông qua những áng văn sử thi, các lễ hội, phong tục tập quán của người thượng. Con người Tây Nguyên thể hiện tình yêu thiên nhiên (yêu rừng, gắn chặt với rừng), trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ bản làng, gia đình, anh em, vợ chồng trước mọi hiểm nguy.
Một trong những giá trị tiêu biểu nhất trong kho tàng văn học dân gian đồng bào dân tộc Tây Nguyên là “trường ca” (sử thi), những tiểu thuyết lịch sử chia thành chương đoạn, chủ yếu tường thuật những cuộc giao tranh giữa các tù trưởng trong các cuộc chiến tranh xâm lấn lãnh thổ, hoặc nó phản ánh tinh thần chống sức mạnh thiên nhiên, chống lại sự huyền bí của thần linh.
83
Trường ca “Đam San” kể về vị tù trưởng, biểu tượng cho vị anh hùng bảo vệ đời sống cộng đồng, có tinh thần anh dũng anh dũng, hiên ngang đấu tranh với thiên nhiên, có thái độ dứt khoát chống lại sự bất công xã hội, chống lại các tập tục lạc hậu.
Lòng yêu nước của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên còn được biểu hiện qua “lễ thành đinh”: “Có nơi gọi lễ cắt việc, thổi bế bồng, đây là lễ công nhận hết tuổi trẻ con, đủ sức và ý thức để trở nên thành viên của cộng đồng, có trách nhiệm gánh vác công việc của gia đình, của bộ tộc” [119, tr.121].
Lòng yêu thương con người của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thể hiện qua lao động sản xuất, sinh hoạt cộng đồng, tình cảm gia đình. Mỗi thành viên đều được làng đùm bọc với nếp sống, cách nghĩ vui buồn có nhau. Ở trong làng khi gia đình có một vấn đề gì to hay nhỏ đều được cả làng quan tâm chia sẻ, từ chuyện sinh nở cho đến chuyện người chết, chuyện chuẩn bị làm nhà đến chuyện tình yêu trai gái…Một gia đình có chuyện cả làng giúp việc ăn uống, lo các thủ tục từ thờ cúng cho đến chăm sóc sức khoẻ con người. Một thành viên trong làng bắn được con thú cả làng chia phần, một nhà mở chế rượu cả làng đều uống. Mỗi người là một thành viên nhất định của cộng đồng, sống trong không khí cộng đồng và suốt đời bị chi phối bởi lối sống mang tính cộng đồng trong cống hiến cũng như hưởng thụ. Điều đó được thể hiện trong thuyết hang Ađrên (băng Ađrên), người Mnông có truyện “Trôm Nđrênh”, người Cơ - Ho có chuyện kể về dòng dõi con cháu nữ thần mặt trời, người Ba Na kể về Ông Trống (bok sgơ).
Sự thuỷ chung son sắt của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thể hiện ở tình yêu đôi lứa, khát vọng hạnh phúc, sự ấm no qua các vần thơ. Tộc người nào cũng có vốn ca dao, tục ngữ, thành ngữ và sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. Những bài ca dao thường nói về tình cảm đôi lứa, tình yêu thiên nhiên, tình cảm gia đình, bạn bè, ca ngợi quê hương xứ sở, nói lên ước vọng cuộc đời. Thơ ca vùng Tây Nguyên thể hiện tình yêu thương
84
con người một cách chân thật, dám hy sinh tất cả để đón nhận tình yêu dù có phải chờ đợi. Bài Hri người Ba Na:
Anh lên núi, em theo anh lên núi
Anh xuống suối, em cũng theo anh xuống suối Anh có đi xa dù bao năm tháng, em vẫn chờ anh Con trâu, cha mẹ cho đã buộc ở cây to
Chiếc cườm năm xưa anh tặng em vẫn giữ [83, tr.216].
Xã hội truyền thống của vùng đất Tây Nguyên trước đây chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước, chủ yếu là sống cộng đồng, làng xã. Vì vậy, các quan hệ xã hội mang tính bình đẳng, mọi người tham gia lao động đều được hưởng thụ một cách bình đẳng như nhau, không phân biệt già, trẻ, gái trai. Mức sống của các gia đình trong làng không chênh lệch nhau là mấy, quan hệ giữa con người với con người gắn bó chặt chẽ, mọi người sống ngay thẳng. Mối quan hệ gia đình, vợ chồng bình đẳng, con cái được tự do, người già được tôn trọng, trong cộng đồng mọi người đều sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Tình yêu thương con người là một trong những giá trị đạo đức truyền thống cốt lõi của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, giá trị này đã và đang có ảnh hưởng sâu sắc đến việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng.
Đức tính cần cù, tiết kiệm ở đồng bào các dân tộc Tây Nguyên được thể hiện thông qua lao động sản xuất nương rẫy, những con người nơi đây yêu tự nhiên, coi trọng các thành quả lao động của gia đình. Những chàng trai cô gái Tây Nguyên rất giỏi dệt vải, săn bắn, trồng trọt. Đến mảnh đất Tây Nguyên, chúng ta thấy đồng bào nơi đây rất giỏi các nghề làm mộc, đan lát, dệt vải, rèn, làm gốm. Hầu hết đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đều có truyền thống dệt vải, tuy cách thức dệt còn thô sơ, chưa có cả khung cửi, mà chỉ có loại “khung dệt kiểu Anh- đô - nê - điêng”. Người Mạ đã đề ra tiêu chuẩn của thủ lĩnh làng: “Ai dệt giỏi thì có mền đẹp, ai se sợi giỏi thì có chỉ tốt, ai am hiểu truyền thống và làm theo đúng thì trở thành thủ lĩnh” [83, tr.203-204].
85
Cần cù, tiết kiệm của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên còn thể hiện ở săn bắn các thú rừng, thể hiện tinh thần thượng võ, các kỹ thuật điêu luyện khi sử dụng vũ khí để tiêu diệt con mồi. Họ tiết kiệm thời gian chỉ khi nương rẫy ít việc thì họ vào rừng săn bắn hoặc khi nhu cầu thực phẩm của gia đình và làng đang cần phải có. Người Mnông và Êdê nổi tiếng săn voi, người Gia Rai và Ba Na giỏi săn bò tót. Hoạt động săn bắn của đồng bào có mùa, với các hình thức khác nhau: đi săn tập thể, cá nhân, vây đuổi, rình, bẩy… Với các loại thú rừng khác nhau, họ có cách săn bắn khác nhau, sử dụng vũ khí khác nhau. Mỗi người con trai đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đều được dạy dỗ từ nhỏ về đức tính cần cù, chịu khó, về các kỹ thuật săn bắn, lớn lên họ được trải nghiệm trong thực tế. Săn bắn không chỉ đề cao thành quả lao động, lợi ích kinh tế, mà còn thể hiện niềm vinh dự và sự tự hào về thành quả lao động mà mình đã đạt được. “Nhiều người ở Buôn Đôn suốt cuộc đời đã bắt và thuần dưỡng hàng trăm con voi rừng như cụ Ypui bắt được 450 con, cụ Yniê bắt được 240 con, “Vua voi” Ythu là người săn voi nổi tiếng ở cả Thái Lan, Lào, Campuchia. Những người này được trân trọng gọi là Kru” [119, tr.138].
Ở đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tinh thần đoàn kết là một truyền thống quý báu, tạo nên bản sắc văn hoá của con người Tây Nguyên. Sinh hoạt cộng đồng luôn gắn với cuộc sống hàng ngày của mỗi con người nơi đây, ngay cả trong các hình thức nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo đến việc săn bắn thú rừng. Nếu như người Kinh có truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” để nói về một nguồn cội, thì người H’mông có truyền thuyết sinh trong bọc thịt.
Trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên, làng là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất, mỗi làng đều có tên riêng và mang tính ổn định tương đối. Đặc điểm lớn nhất của làng là tính cố kết cộng đồng sâu sắc, tính cố kết ấy được thể hiện đậm nét trong mọi phương diện của đời sống xã hội. Làng không chỉ là cộng đồng cư trú, làng còn là nơi gắn bó chặt chẽ, khăng khít con người lại với nhau trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt hàng ngày từ đời sống vật chất